Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

Cuộc Đời Qua Mắt Tôi

Cuộc Đời Qua Mắt Tôi

Chiếc thân tứ đaị khói
Sinh hoạt thế gian mây
Thành công khối nước đá
Thất bại chùm bọt tan
Nhục vinh bong bóng nước
Thương ghét hạt sương mai
Khổ vui trong giấc mộng
Danh lợi bóng chim bay.
Tháng ngày cái chớp mắt
Còn mất nước trăng lay
Chung cuộc cơn gió thoảng
Viên mãn bầu trời trong.
            Thiền Sư Thích Thanh Từ
 ( Thiền viện Chân Không , tháng 6 -1984)

***
Các Bài Thơ Cảm Tác:

        Cuộc Đời

Thân tứ đại sương khói,
Dòng đời áng mây bay.
Sự nghiệp như băng giá,
Thành bại thoáng tan ngay.
Nhục vinh sương trên lá,
Thương ghét thời gian pha.
Khổ vui là mộng ảo,
Lành dữ ngoài tầm tay.
Tháng ngày trôi chớp mắt,
Tan họp khóc thương vay.
Đời người như gió thoảng,
Xuôi tay dứt mộng dài.
                      Mailoc
            (ĐaLạt 13-2-2012)
( Cảm tác qua bài thơ “ Cuộc Đời trong mắt Tôi” cuả Thiền sư
Thích Thanh Từ nơi thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt )

***
Đời Con Người Ta

Thân ta từ cha mẹ,
Cha mẹ từ ông bà.
Ngược lên mãi vô tận
Sơ khai, con người ta.
"Con người", một giống lạ!
So muôn loài, khác xa.
Con người có "trí tuệ"
Và "mơ ước" bao la.
"Làm người" thật vinh dự,
Sao ta lại lơ là;
Coi mình, như "cát bụi",
Hèn mọn, giọt sương pha. 
 - - - - - - -
Hãy biết yêu tất cả,
Trong tình thương chan hòa.
Vui vẻ đến chung cuộc,
Sống trọn đời tinh hoa.
Thành công, mừng có hạn;
Thất bại, không xót sa.
Đời có lên, có xuống.
Nắng mưa, đều trải qua.
Được vầy, không luyến tiếc,
Và chẳng dạ xuýt xoa.
Thanh thản đầy độ lượng
Trăm năm khi rời xa.
                 Danh Hữu
                19 juin 2016
***
      Cuộc Đời Qua Mắt Tôi

Tựa khói tứ đại thân ta,
Như mây cuộc sống chốc đà rả tan.
Thành công thất bại ngang hàng,
Như băng như bọt dễ tàn phút giây.
Nhục vinh như bóng nước này, 
 Ghét thương tựa giọt sương mai chóng tàn. 
 Khổ vui như giấc mộng vàng, 
 Lợi danh, ôi, bóng chim ngang lưng trời !
Thoi đưa ngày tháng qua rồi,
Được, còn, thủ, thất, cuộc đời qua mau!
Nhẹ như cơn gió qua rào,
Sắc không không sắc khác nào trời xanh !
                                 Đỗ Chiêu Đức
                                   06-19-2016
***
      Làm Kiếp Con Người

Đời người nếu bảo dài hay ngắn
Đâu thể nào so tháng tính ngày
Bằng hiện diện ngay trên quả đất
Từ chào đời đến lúc xuôi tay

Tấm hình hài rốn chưa rời mẹ
Trẻ chí già sao thoát mạng vong
Hai tiếng sinh ly còn tránh được
Làm sao khỏi tử biệt mà mong

Cù lao chín chữ công nuôi dưỡng
Giáo dục ơn thầy dạ khắc ghi
Đất nước mong chờ người trí dũng
Tương lai tổ quốc đắn đo gì

Một ngày biết sống theo chân lý
Hậu thế lưu danh vạn vạn đời
Kẻ chọn lợi danh làm cứu cánh
Sống thừa trọn kiếp vậy mà thôi

Vinh dự thay làm kiếp con người!
                            Kim Phượng

(Theo longhovinhlong.blogspot.com)

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2016

Tu Trong Cuộc Sống Đời Thường



Nghe nói đến tu, nhiều người cứ nghĩ rằng việc ấy không dành cho mình mà chỉ dành cho những người đầu tròn áo vuông ở chùa kia. Với họ, tu chỉ dành cho những người thật là thánh thiện chứ không phải dành cho người phàm như chúng ta. Trong suy nghĩ của họ, tu là phải lánh đời, tìm một nơi yên tĩnh, tránh xa đời sống xã hội ồn náo mà không quan tâm đến nỗi khổ niềm đau của người khác. Thế nhưng, đức Phật ra đời vì sự an lạc hạnh phúc cho mọi người, nên con đường tu tập Ngài chủ trương không thể nào đi chệch hướng chủ đạo này. Trên cơ sở đó, dù người nào tìm một nơi thanh vắng để tu, nhất định họ sẽ có cách chia sẻ thành quả tu tập của mình để giúp người khác sống an vui, hạnh phúc chứ không hề thờ ơ, sống ích kỷ với cuộc đời. Hòa thượng Nhất Hạnh từng phát biểu rằng “không quan trọng là bạn đi trên nước hay đi trên hư không. Thần thông thật sự là đi trên mặt đất”. Câu này rất gần với lời Phật nói trong Trường bộ kinh, số 11: kinh Kevaddha rằng, Ngài chỉ xem giáo hóa người khổ đau thành hạnh phúc, xấu thành tốt, dữ thành hiền mới thật sự là thần thông. Nói cách khác, trở thành con người với các phẩm chất thiện lành có lẽ là thần thông vĩ đại nhất không chỉ đức Phật và nhiều người khác cũng có thể làm được.

Gần đây, nhiều người phật tử bị lôi cuốn vào các viên tròn tròn đủ màu trắng, xanh, hồng, vàng… được gọi là xá lợi và đua nhau sang Myanmar để thỉnh về. Nhiều chùa làm lễ cung rước xá lợi nghiêm trang lắm! Rồi đồn nhau ai thờ xá lợi mà tu tinh tấn thì xá lợi tự sinh thêm ra, còn ai giải đãi, đức hạnh kém thì nó giảm đi về số lượng. Rồi họ rất hiếu kỳ đồn nhau có viên phát sáng, tự tăng kích cỡ, tự sinh thêm ra, có khả năng di chuyển trong nước … Khi tôi hỏi những chuyện đó có ảnh hưởng tích cực gì đối với sự đoạn trừ tham sân si, nuôi dưỡng tâm lành của quý vị không, thì họ không trả lời được. Với tâm lý tò mò, ưa sự khác lạ, nhiều người chạy theo những hiện tượng ngồ ngộ như thế như một trào lưu, chứ thật ra, nó chẳng ảnh hưởng gì đến sự tu tập của mỗi cá nhân. Nhiều người cư sĩ khi hỏi các vị xuất gia “thầy/cô có thấy và giao tiếp được với người âm không? Có thể trừ ma trừ quỷ không?...” mà nhận cái lắc đầu không biết thì họ tỏ ra thất vọng lắm. Họ không chịu hiểu rằng, thần thông bậc nhất là hoàn thiện nhân cách. Nếu có thần thông biến hóa đi trong không trung, đi xuyên lòng đất, đi trên mặt biển, đi gió về mây mà không có tâm lành và trí tuệ để biết cách sử dụng các năng lực đặc biệt thì thần thông ấy cũng là thứ bỏ đi.

Không cần cạo tóc rời gia đình vào chùa mặc áo nâu sồng, không cần thần thông biến hóa, rất đỗi đời thường, ta vẫn có thể tu được. Chữ “tu”, theo cách đức Phật đề cập đến trong giáo lý của Ngài, rất gần gũi với chúng ta như cơm ăn, nước uống, khí trời để thở vậy. Ta hãy đặt mình vào sự tu tập trong một ngày xem sao.

Thức dậy

Ý niệm đầu tiên mỗi sớm mai thức dậy là tự nhắc mình, làm thế nào để có thể nuôi dưỡng một trái tim thiện lành? Nói với chính mình hay ta nói với người khác rằng, “ta nên tử tế, ta nên yêu thương, ta không nên thế này, mà nên thế nọ”, thật ra, là một cách nói suông, sẽ không có tác dụng gì với việc nuôi lớn tâm thiện lành của mình. Ta cần phải biết cách thực hành, chuyển hóa tâm thức một cách thiết thực chứ không phải là lý thuyết. Con người mình không thể trở nên bình an hơn, thế giới này không thể trở nên tốt hơn nếu ta cứ ngồi đó suy nghĩ, tưởng tượng mà không hành động để hiện thực hóa thiện chí của mình. Ta cần phải thật sự muốn phát triển tâm thiện lành qua các ngạch lời nói và hành động. Ý niệm thiện lành là việc làm đầu tiên vào buổi sáng, trước khi nghĩ đến sáng nay mình ăn gì, công việc nào cần làm ngay khi đến cơ quan. Ý niệm đầu tiên trong ngày ấy là chất liệu nuôi dưỡng lời nói và hành động rằng, “ngày hôm nay, trong khả năng có thể, tôi sẽ không làm tổn thương đến ai. Tôi sẽ nỗ lực làm cái gì đó đem lại lợi ích cho người khác. Hôm nay, nếu có cơ hội, tôi sẽ làm tất cả những gì trong khả năng để đem lại an vui, hạnh phúc lâu dài cho tất cả chúng sanh”. Khởi đầu một ngày mới bằng động cơ tích cực như thế từ nguồn tâm yên tĩnh và nhu nhuyến quả là tuyệt vời. Nếu có một quyết định rõ ràng, dứt khoát vào buổi sáng sớm như vậy, năng lượng viên mãn đầu ngày đủ để nuôi dưỡng ý niệm này trong suốt một ngày. Sau khi khởi tâm như vậy, ta nhẹ nhàng rời giường, bước xuống đất từng bước chân thanh thản với tâm an tịnh. Sau khi vệ sinh cá nhân, ta bắt đầu thực hành thiền. Ngồi thiền vào thời điểm này có kết quả cao nhất, tâm dễ an tịnh nhất sau khi thân được nghỉ ngơi qua một đêm dài.

Thực hành thiền mỗi sáng

Như các bài tập thể dục rèn luyện thân thể, tập đều đặn mỗi ngày mới có kết quả. Thiền – cách rèn luyện thân tâm – cũng phải như thế. Thiền cần phải thực hành thường xuyên mỗi ngày như một phần cuộc sống mới có kết quả tốt đẹp. Thật ra, chỉ những người nào thực hành thiền nghiêm túc mới cảm nhận được lợi ích của phương pháp luyện thân-tâm này mà trân trọng dành cho hoạt động này một khoảng thời gian nhất định trong ngày. Nếu không thực hành mà suy đoán, tưởng tượng, hình dung thì không bao giờ đưa hoạt động này vào trong nếp sinh hoạt hằng ngày vì những người này chưa từng biết đến lợi ích của thiền. “Thiền à? Tôi không có thời gian đâu mà ngồi yên đó thở phì phò. Tôi còn phải chạy chợ để kiếm cơm cho cả gia đình này” là cách họ nghĩ, nói và làm. Thật ra, họ có thời gian xem tivi, tán gẫu với bạn bè hàng tiếng đồng hồ, họ thường xuyên dành thời gian để dạo các khu mua sắm, đi siêu thị và các khu giải trí. Ở nhà thì không biết bao nhiêu lượt họ xuống tủ lạnh lấy đồ ăn vặt, khi thì món này, lúc thì món khác, nhưng hễ nói đến thực hành thiền thì họ không hề có thời gian. 24 tiếng đồng hồ trong ngày có thể tiêu tốn vào bao việc khác, nhưng tuyệt nhiên không có cho thiền định. Chỉ khi nào ta thấu hiểu được kết quả tuyệt vời của thiền, nó trở thành hoạt động ưu tiên trong cuộc sống, ta sẽ biết cách phân phối thời gian và lúc này, chắc chắn ta sẽ có thời gian cho thiền. Ta biết nuôi thân ngày ba bữa chính và nhiều bữa phụ thì cũng nên nghĩ đến việc nuôi tâm bằng các thời hành thiền vậy. Nhận ra điều này, chúng ta liền có thời gian từ việc cắt giảm thời gian xem tivi, mua sắm, hội họp bạn bè bù khú vui chơi để hành thiền. Khi biết quan tâm, chăm sóc tâm và dành một sự trân trọng đáng có cho đời sống tâm linh, nghĩa là ta biết tôn trọng mình với tư cách một chúng sanh biết hướng thiện.

Thiền là một công việc thường ngày

Sáng sớm là thời điểm tốt nhất để thực hành thiền. Ý niệm đầu tiên trong ngày là rải tâm từ đến tất cả chúng sanh và mong muốn nhiều người có được an lạc, lợi ích từ việc thực hành thiền, rồi chính thức thực hành thiền thở. Ngồi tĩnh lặng, cảm nhận hơi thở vô và ra, ý thức được hơi thở đang thấm nhuần khắp cơ thể và nuôi sống từng tế bào, ta sẽ cảm thấy khoan khoái, khinh an. Chỉ thuần túy chú tâm vào hơi thở, an trú tâm ngay trong hiện tại, một cách tự nhiên, các ý tưởng lăng xăng tự lắng xuống, ta chỉ còn cảm nhận hơi thở.

Ai cũng có thể sắp xếp và thức dậy sớm để hành thiền, kể cả những người có con nhỏ, nếu chúng ta nỗ lực và kiên trì. Chúng ta có thể dậy sớm hơn và thực hành thiền khi con trẻ còn đang ngon giấc. Thời điểm ấy, không gian còn yên tĩnh ta dễ dàng trú tâm hơn. Thực hành thiền không khó, cái khó là làm sao duy trì sự chú tâm trong mỗi lần ngồi thiều và làm sao duy trì sự thực hành này để trở thành nếp như một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày của mình. 

Nếu các bậc phụ huynh thực hành thiền thường xuyên, con em họ sẽ có cơ hội tiếp nhận năng lượng thiện lành này từ sự thực hành của cha mẹ. Các em có thể học cách ngồi thiền để cùng ngồi với cha mẹ, hoặc ít ra cũng tôn trọng không gian yên tĩnh của cha mẹ mà không gây tiếng động ồn ào. Nếu cha mẹ cứ lăng xăng bù khú bạn bè, nói chuyện điện thoại với nội dung vô bổ, bàn luận những điều nhảm nhí, hay dành hàng giờ ngồi trước tivi thì con cái cũng sẽ làm y như vậy. Học bằng cách bắt chước là cách học nhanh nhất. Chúng ta muốn con em mình học theo cách nào? Nếu quan tâm đến con em mình đúng nghĩa, trước hết hãy quan tâm đến chính bản thân mình để duy trì một lối sống lành mạnh, cân bằng để đem lại lợi ích thiết thực và lợi ích lâu dài cho bản thân mình.

Một trong những cách tự nhiên nhất để tập con em chúng ta dần quen với đạo là cho các em nghe nhạc đạo và dạy các em hát những bài đạo ca có giai điệu vui tươi và lời đơn giản dành cho trẻ, mở pháp như mở nhạc nền cho các em dần quen, nhờ các em giúp một vài việc nho nhỏ khi đang lau quét bàn thờ Phật, hoặc rủ các em cùng ngồi thiền, đưa ra những câu hỏi đơn giản kích thích sự tò mò của các em về đức Phật và những điều căn bản trong đạo Phật, kể các em nghe những mẩu chuyện đạo đơn giản trong tầm hiểu biết của các em… Đây là những cách dạy đạo đức hiệu quả nhất cho con em mình và cũng là cách tu dễ dàng nhất của các bậc phụ huynh khi có thể hòa quyện tu và làm, tu và sống, tu và nuôi dạy con.

Tu nơi làm việc

Chúng ta trải qua phần lớn thời gian trong ngày tại nơi làm việc, do vậy, chúng ta có thể sử dụng thời gian này để tu tập theo cách của mình. Sau khi điểm tâm, ta đến sở làm. Hãy bước ra khỏi nhà với một tâm lý tích cực, tràn đầy năng lượng yêu thương của một ngày mới và gởi tâm niệm lành này đến với tất cả những ai gặp, tiếp xúc, nói chuyện và cộng sự với mình trong suốt ngày hôm ấy. Suốt ngày làm việc, dù bận rộn, đừng để công việc tạo áp lực cho mình. Cứ phải nhắc mình, ngày hôm nay, tôi đến đây là để làm việc lợi ích cho mình, cho người chứ không phải làm tổn thương bất cứ ai. 

Ta có thể thực hành cách nuôi dưỡng tâm thương yêu rộng lớn qua tất cả các tình huống, sự kiện trong ngày. Đơn giản và thường gặp nhất ngay từ khi vừa ra khỏi nhà là đèn đỏ giao thông. Nhịp sống hối hả ở thành phố lớn đôi lúc cuốn ta đi trong sự vội vã và căng thẳng, hễ gặp đèn đỏ dù chưa đầy một phút, ta thường có tâm lý không thoải mái. Suy nghĩ khởi lên trong đầu lúc này là “sao xui thế này, cứ đến ngã tư là mình gặp đèn đỏ à”; “sao đèn đỏ lâu thế này, trễ mất rồi”…Nếu cứ để những ý tưởng tiêu cực như thế lởn vởn trong đầu, ta mang một tâm trạng nặng nề đến sở làm, còn gì là vui nữa? Để có thể chế tác niềm vui, trong cùng một tình huống gặp đèn đỏ, đứng giữa dòng người tấp nập, ta hít thở nhẹ nhàng, khoan thai và nghĩ rằng “tôi muốn thương yêu tất cả những người này”. Hoặc khi thấy có nhiều người thồ chở hàng hóa nặng nề, cồng kềnh trước mặt hay bên cạnh, ta khởi tâm “họ vất vả quá, đáng thương quá trong cuộc sống mưu sinh”… Tương tự như vậy, khi điện thoại reo, nếu khởi lên ý tưởng “mình sắp bị quấy rầy rồi đây” tâm ta nặng nề lắm. Thay vào đó, khi nghe điện thoại reo, ta nghĩ “tôi sắp có cơ hội được giúp đỡ người nào rồi đây” lòng ta ấm áp với tình thương yêu và nguồn năng lượng này cho ta nguồn sống, nguồn vui để nuôi dưỡng mình trong pháp thiện.

Suốt ngày, ta cần phải nhắc tâm mình, chánh niệm trong mọi hành động, ý thức và làm chủ tất cả những gì từ suy nghĩ, cảm nhận, nói và làm, để đặt chúng vào trong quỹ đạo của sự tu tập, chứ đừng sống một các quá “tự nhiên” muốn gì làm nấy theo bản năng. Khi sống với bản năng tự nhiên, ta thường có phản ứng trái chiều lại với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Ví dụ trời nóng thì ta bực dọc nghĩ sao không mát hơn tí, gặp đèn đỏ thì phàn nàn sao không là đèn xanh, trời mưa thì bảo sao lại không nắng… Với cách đó, ta không thực sự tiếp xúc sự sống và không cảm nhận được sự nhiệm mầu của cuộc sống vậy. Chính vì vậy, ta không thực sự gắn bó với chính mình mà đối xử với bản thân như thể một người xa lạ. Nếu ai đó hỏi trong khoảng nửa tiếng đồng hồ qua ta suy nghĩ gì, cảm nhận gì… ta ngớ ra vì không biết, không ý thức được những gì đang diễn ra với chính mình, trong khi đó, những gì dấy lên trong tâm ảnh hưởng đến cách ta cảm nhận về bản thân và cách ta liên hệ với người khác mà ta không hề biết. Giá như ta biết kiểm soát tâm mình, ta có thể góp phần làm chủ cảm xúc và điều chỉnh hành vi của mình cho hợp lý hơn trong các giao tiếp thường ngày vậy thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn.
Nuôi dưỡng chánh niệm

Thuốc giải cho lối sống luôn tuồng theo bản năng thiếu đi sự kiểm soát là thực hành và nuôi dưỡng chánh niệm, nghĩa là luôn tỉnh thức trên những suy nghĩ, cảm thọ, lời nói và việc làm của mình trong giây phút hiện tại. Đây là cách để giữ mình không trượt ra khỏi chuẩn mực đạo đức, sống với một trái tim nồng ấm tình người không tính toán so đo. Bằng cách nuôi dưỡng sự tỉnh thức, ta dần có thói quen soi vào nội tâm của mình một cách khách quan thay vì nhìn ra bên ngoài với sự phán xét, bình phẩm, khen chê. Chánh niệm sẽ giúp mỗi người chúng ta trở về với chính mình, nhận lãnh trách nhiệm bản thân với những gì ta đã tạo ra, đã tác động chứ không đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh. Chánh niệm tỉnh giác sẽ giúp ta rất nhiều trong việc giám sát, làm chủ cảm xúc của mình, dần bớt đi những tâm lý tiêu cực, nổi loạn vô cớ và trút lên người khác. Thực hành chánh niệm bắt đầu với sự chú tâm vào hơi thở, ta sẽ thuần thục trong hơi thở, trở về sống với trái tim thuần hậu đầy yêu thương, trong sáng, nhẹ nhàng với tất cả mọi người.

Với chánh niệm, ta nhận ra mình là một tế bào trong những mối quan hệ chằng chịt với con người và thế giới bên ngoài, do vậy ta thấy mình trở nên nhỏ bé giữa thế giới bao lo to lớn này. Một khi hiểu được mối lên hệ mật thiết giữa mình và thế giới cộng trụ tương sinh này, chúng ta ý thức hơn về hiệu ứng domino, rằng sự tác động và ảnh hưởng dây chuyền giữa ta và tất cả. Mỗi hành động, lời nói và suy nghĩ của mình có tác động, ảnh hưởng đến môi trường sống để chúng ta cần nhắc hơn, có ý thức bảo vệ môi trường sống, ý thức nuôi dưỡng các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống.

Ôn lại một ngày trôi qua

Với cách thực hành chánh niệm tỉnh giác trên mọi hành động của mình trong ngày, chúng ta trở về nhà trong chánh niệm, với tâm bình thản và chan chứa yêu thương. Về nhà, thay vì dành hết thời gian trước ti vi, ta lại để vài phút yên tĩnh, nhìn lui về một ngày làm việc trong chánh niệm, trong yêu thương, ta cảm nhận ra được nhiều điều bổ ích và thú vị cho bản thân. Trước khi đi vào giấc ngủ để tái nạp năng lượng cho một ngày làm việc mới vào sáng ngày hôm sau, dành vài phút để ôn lại công việc một ngày, cảm xúc một ngày, cách phản ứng của mình trong một ngày ấy là cách giúp chúng ta biết đánh giá mình một cách khách quan, rút kinh nghiệm một cách hiệu quả và thể hiện khát khao sự tiến bộ, hoàn thiện trong công việc cũng như trong hành vi ứng xử của bản thân. Chắc gì trong một ngày qua ta hoàn toàn ý thức và làm chủ mình thật tốt. Có nhiều trường hợp, ta làm với động cơ sân si nhưng ngay lúc ấy, ta không kịp nhận ra, mà khi về nhà, tâm lắng dịu rồi, ta đủ bình tĩnh để nhìn nhận vấn đề đầy đủ và khách quan hơn, lại thấy lúc ấy mình sai và còn nhiều vụng về. Ôn lại để kiểm nghiệm lại những gì diễn ra trong tâm ta suốt ngày hôm ấy, nhưng không có nghĩa ta lại dằn vặt, bất an với những điều mình không hài lòng về bản thân. Hãy tha thứ cho chính mình và điều cần thiết là bài học từ những sai lầm ấy. Với thái độ cởi mở và bao dung, ta đi vào giấc ngủ dễ dàng và có một giấc ngủ sâu và ngon.

Tu trong đời sống thường ngày như thế thật ra không khó khăn mà cũng chẳng mất thời gian. Ta luôn có thời gian, 24 tiếng mỗi ngày. Ta không cần cắt một đoạn thời gian nào, dù rất ngắn, dành cho việc tu tập mà ta tu trong lúc làm, tu trong khi đi, tu trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh ta đang sống. Với cách này, pháp là một chất liệu thấm nhuần vào con người mình, đồng hành cùng chúng ta trong lúc thức cũng như ngủ, lúc học tập, làm việc lẫn vui chơi và chắc chắn ta sẽ có một cuộc sống đầy ý nghĩa và viên mãn trên cõi đời này!

Posted by Hằng Như at 2:10 PM
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Âm Thanh Của Sự Yên Lặng




Con đường Phật-giáo giúp chúng ta trở về với chân thật chính mình, tìm hiểu con người của mình, ý thức được từng tư duy, từng ngôn từ và từng hành động của mình. Đó là cách tiếp cận sự sống “ngược chiều với sự xao lãng”, nói một cách khác là phải phát huy một sự chú-tâm cao độ hầu giúp chúng ta trông thấy được sự “sâu-thẳm của không gian” đang tỏa rộng trong tâm-thức, giúp ta tìm về với “tâm-thức nguyên-sinh” thật tinh-khiết và vắng lặng của chính mình.

Chính sự yên-lặng (hay tánh-không) là các khái-niệm có thể mở ra cho chúng ta một hướng nhìn khác hơn, mang lại một cái gì đó cho ta quan-sát, bởi vì cuộc sống đã làm vỡ tan sự yên lặng và xô sập cả không gian. Chúng ta đã tạo ra một xã hội bắt ta phải sống trong một tình trạng bị động thường xuyên, ta không còn cảm thấy là mình đang thật sống. Cuộc sống đó thật hối hả, sự thông-minh của bộ não giúp chúng ta nghĩ ra đủ mọi cách nhằm làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, thế nhưng trên thực tế thì chúng ta luôn mệt mỏi.

Dường như chúng ta luôn cảm thấy mình không thể nào ngồi yên được, cần phải làm một cái gì đó để lấp đầy sự yên-lặng, tạo ra các hình tướng để lấp đầy không gian… Xã hội chỉ xem trọng những người mang một cá-tính rõ rệt, một bản-lĩnh biểu lộ được giá trị của họ. Đó cũng chỉ là sự chạy đua của kẻ mạnh, sự xoay vần của một chu kỳ bất tận, khiến ta bị căng thẳng triền miên. Chúng ta cũng có thể sẽ cảm thấy chua chát vì không tìm thấy được lạc thú và những sự toại-nguyện mà sự sống đáng lý ra phải mang lại cho mình. Tóm lại, chúng ta phải luôn tìm đủ mọi cách để chứng tỏ khả-năng của mình, cho thấy mình là một “con người nào đó”, và chính vì thế mà ta phải luôn phục tùng tất cả những gì mà cá-tính của ta bắt mình phải thực hiện.

Thật ra, cá-tính hay tính-khí con người vốn lệ thuộc vào tâm thức. Chúng ta không sinh ra với một cá-tính nào cả. Nếu muốn trở thành một “cá nhân” nào đó thì chúng ta phải suy nghĩ và hình dung mình là một con người nào đó. Chẳng hạn như là một người tốt hay xấu, hoặc là một sự tổng hợp pha trộn đủ mọi thứ khác nhau, tính-khí thay đổi liên tục dưới sự chi phối của nghiệp, khi nó tác động với các bối cảnh bên ngoài và tạo ra các nét cá-tính khác nhau. Cá-tính phát sinh từ ký ức, từ khả-năng nhớ lại lai-lịch của mình, từ các quan điểm về chính mình – cho rằng mình đẹp hay xấu, dễ thương hay đáng ghét, thông minh hay ngu đần – và cách nhìn đó về chính mình sẽ liên tục biến đổi tùy thuộc vào các bối cảnh xảy ra dưới các hình thức ký-ức, trí nhớ, kỷ niệm – nó tác động với cơ-duyên tạo ra tính-khí của mình, cái tính-khí luôn biến đổi đó không thể là “cái tôi” hay “cái ngã” của chúng ta.

Trái lại, nếu phát huy được một khả năng suy-tư bén nhạy thì chúng ta sẽ có cơ hội nhìn thấy xa hơn. Chúng ta sẽ thực hiện được các kinh nghiệm, cảm nhận về “tâm-thức nguyên sinh” tức là tri-thức của chính mình trước khi nó bị chi phối bởi các sự cảm-nhận của mình. Các sự cảm nhận của ngũ giác-quan và tâm-thức sẽ làm cho “tri-thức nguyên sinh” ây bị méo mó và ô nhiễm, và biến nó trở thành “cái tôi” hay “cái ngã” của chính mình.

Nhưng nếu cứ ra sức tìm hiểu về cái tâm-thức nguyên sinh ấy, chúng ta sẽ khó tránh khỏi rơi vào cạm bẫy giăng ra bởi khả năng lý-luận. Tính cách nhị-nguyên của sự suy nghĩ và lý luận có thể sẽ làm cho chúng ta trở thành đối-tượng của sự suy nghĩ hay lý luận. Cho nên, với cái “tri-thức nguyên sinh” ấy, ta chỉ có thể cảm được nhận một cách trực tiếp mà thôi. Do đó, tốt hơn hết là chỉ nên quan sát và lắng nghe; thay vì tìm cách khám phá ra phương cách phải làm thế nào để đạt được sự giác-ngộ. Ngay cả việc hành thiền nhắm vào chủ đích tìm kiếm sự giác-ngộ cũng sẽ không mang lại một kết quả nào, bởi vì khi ấy chúng ta vẫn còn tìm cách đạt đến một kết quả nào đó, thì chúng ta sẽ vẫn còn tạo ra cho mình một “cái tôi” trong thể dạng vô-minh của nó.

Chúng ta không nên chỉ biết phản ứng căn cứ vào những thứ ảo-giác do chính mình tự tạo ra, cũng không căn cứ vào những sự suy nghĩ vay mượn từ vốn liếng hiểu biết của mình. Nếu muốn thực hiện được điều đó thì chúng ta phải tập “lắng nghe cho được sự yên-lặng”. Điều đó sẽ giúp ta đương đầu với các thói quen, các sự xao-động (trên thân xác) và các xúc-cảm (trong tâm-thức) đang chi phối sự sinh-hoạt thường nhật của mình.

Chỉ đến khi nào chúng ta hướng được sự “chú tâm vào sự yên lặng”, thì ta sẽ lắng nghe được sự suy-nghĩ của mình. Khi suy nghĩ thì người ta cũng nghe thấy được là mình đang suy nghĩ, đồng thời cũng sẽ nghe thấy cả âm thanh của sự yên-lặng. Khi tâm thức cảm-nhận được sự yên-lặng, thì đấy là “thể dạng nguyên-sinh” của chính nó. Trong thể dạng đó không còn một tư-duy nào, không có một “cái tôi” nào hiện lên, mà chỉ là một sự trống không (hay tánh-không) tuyệt đối mà thôi. Tánh-không không hề có nghĩa là tự cô lập hay chối bỏ bất cứ một thứ gì, mà chỉ là sự buông bỏ các xu hướng quen thuộc đang chi phối các sinh hoạt không ngưng nghỉ và các tư duy dồn dập của chúng ta trong cuộc sống thường nhật.

Thật vậy, chúng ta không cần phải nhắm mắt, bịt tai hay cách ly với những sinh hoạt chung quanh, không cần phải luyện tập trong một nơi nhất định nào cả, mà có thể là ở bất cứ nơi nào và trong hoàn cảnh nào. Từ đó, sự luyện tập sẽ không gặp phải một khó khăn nào, dù là chúng ta đang phải sống chung với một tập thể hay trong khung cảnh gia đình, khi mà cuộc sống ấy đã trở thành tập-quán riêng của mình. Vượt qua các hoàn cảnh mà chúng ta thường có thói quen sinh-hoạt dựa vào các định-kiến và hình ảnh (sự hình-dung và tưởng-tượng) mà chính mình cũng không hề có ý-thức nó . Đây chính là dịp mà sự yên lặng của tâm-thức đánh thức sự quán-thấy của chúng ta trước các điều kiện trói buộc ấy. Khi nào hiểu được rằng tất cả mọi hiện tượng đều “hiện ra để mà biến mất đi”, thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng tất cả các tư-duy và hình ảnh mà mình tạo ra để gán cho là mình và người khác đều là do từ tâm-thức tạo dựng ra (do thói quen, thời gian và ký ức) và mình thì không hề là những thứ ấy.

Chúng ta chỉ cần biết được những gì “không thật là mình” thì cũng là đủ. Mọi vấn đề rắc rối đều phát sinh từ việc chúng ta tin rằng “mình là tất cả những thứ ấy”, nhưng thật ra thì ta lại không phải là những thứ ấy, đấy chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho mình. Chúng ta khổ đau là vì lúc nào cũng cảm thấy mình là một cá nhân nào đó. Nên chỉ khi nào mình không còn phải là “một con người nào” cả, thì khi ấy chẳng những ta sẽ không có một sự khổ đau nào mà còn là cả một sự nhẹ nhõm, tương tự như “trút bỏ được gánh nặng tạo ra do bởi chính cái ngã” của mình và sự sợ hãi trước cái nhìn của kẻ khác.

Tất cả “gánh nặng” ấy phát sinh “từ cảm-tính cho rằng mình có một cái-tôi”, vì thế chúng ta cũng nên buông bỏ cái gánh nặng ấy xuống. Chỉ cần buông bỏ nó và đơn giản chỉ có vậy. Thật là nhẹ nhàng thanh thản bao nhiêu khi cảm thấy mình không phải là “một con người nào” cả! Khi ấy ta không còn thấy mình phải đương đầu với mọi thứ khó khăn, như phải gắng sức luyện tập thiền-định liên tục hầu thoát ra khỏi tình trạng đó, hoặc cảm thấy mình phải được giải-thoát nhưng không sao đạt được sự giải-thoát ấy? Tất cả những thứ ấy đều cũng chỉ là các sản phẩm do tư duy tạo tác ra. Đấy là cách tạo dựng ra các sự suy nghĩ về mình, tức là do các thói quen phán đoán liên tục nhắn bảo với mình là mình không được hoàn hảo lắm, còn phải cố gắng hơn nữa.

Chúng ta hãy lắng nghe; khả năng “nghe” của ta lúc nào cũng sẵn sàng. Thiết nghĩ trong giai đoạn mới khởi sự tu tập, âm thanh của sự yên-lặng sẽ không có vẻ gì là hấp dẫn lắm so với các thói quen, sự yên lặng không đủ sức thu hút hay chinh phục ta so với các thói quen suy-nghĩ đã ăn sâu vào tâm-thức từ trước. Thật ra, dù là đang nghe một bản nhạc, nhưng chúng ta vẫn có thể lắng nghe được sự yên-lặng. Nó không hề phá hỏng âm điệu của bản nhạc mà ta đang nghe, chúng ta có thể vừa thưởng thức âm thanh và nghe cả sự yên-lặng.

Người ta thường nói: sự yên-lặng, tánh-không và vô-ngã không phải là những gì mà ta phải đạt cho bằng được, mà thật ra là chúng ta phải làm sao loại bỏ tất cả mọi “sự thèm-khát” của mình. Dù mang bất cứ ý nghĩa nào, thì tất cả những thứ ấy cũng đều là các hình thức “chống lại sự yên-lặng”. Cho nên, chúng ta phải hủy diệt tất cả các điều kiện trói-buộc, từ âm-thanh đến hình tướng. Không nên để cho bất cứ một hình tướng nào còn sót lại trong gian phòng này, ngoài những bức tường trắng toát. Trong một bài kinh, Đức Phật nêu lên phép thiền-định về sự an-trú trong Tánh-Không qua những phép tập trung sự cảm-nhận: nếu tập trung sự cảm-nhận về gian tịnh xá thì chỉ cảm nhận gian tịnh xá hoàn toàn trống không; nếu tập trung sự cảm nhận về rừng thì chỉ cảm nhận toàn là rừng; nếu tập trung sự cảm nhận về đất thì chỉ cảm nhận toàn là đất; tiếp theo là các sự tập trung sự cảm-nhận về không-gian vô tận, về tri-thức vô tận, về hư vô…v.v. cho đến không-cảm-nhận, nhưng cũng không-phải-là không-cảm-nhận và sau cùng là cảm-nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích. Đây là một lời dạy rất thực tiễn, vô cùng cao siêu và sâu sắc, nó giúp chúng ta trực tiếp áp dụng khái-niệm về tánh-không do chính Đức Phật thuyết giảng vào việc “biến cải tâm-thức” cho chính mình.

Chúng ta sẽ phải cần đến sự chú-tâm và sự cảm-nhận về thực-tại. Cuộc sống này trói chặt chúng ta với thân xác, sự lệ thuộc đó thật hết sức nặng nề. Suốt đời, chúng ta phải sống giam mình trong các khả năng hạn hẹp của thân xác, phải đối đầu với mọi chướng ngại và khó khăn phát sinh từ thân xác như khuyết tật và ốm đau .v.v.. Đấy là chưa nói đến mọi thứ xúc cảm bên trong tâm thức! Chúng ta buông mình vào các thứ thú vui giác-cảm cũng như các sự cảm-nhận đớn đau trong suốt cuộc sống này. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhìn vào các thứ ấy theo một chiều hướng khác hơn, đó là chiều hướng mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta, ấy là: phải nhìn vào mọi sự vật đúng như chúng “đang-là”, và cũng nên để cho chúng được là như thế, đúng với bản chất của chúng “là như thế”. Dù đó là nguyên nhân của khổ đau nhưng cũng chỉ là nhất thời mà thôi, và chúng không hề hàm chứa một thật thể nào cả. Thay vì phải tìm cách gán cho chúng một giá trị hay một sự quan tâm nào đó khiến chúng bị biến dạng đi, như thế, nó chỉ tạo ra thêm khổ đau cho mình mà thôi.

Chỉ vì vô-minh nên chúng ta thường xuyên tạo ra những hình ảnh lệch lạc về những gì xảy ra trong cuộc sống, về thân xác mình, các sự hồi tưởng của mình, lời ăn tiếng nói của mình, các sự cảm nhận của mình, quan điểm của mình, văn hóa và các tập quán tôn giáo của mình – nó khiến mọi sự trở nên vô cùng phức tạp, khó khăn và đối nghịch nhau. Những sự điên rồ đó đều phát sinh từ sự ám ảnh về “cái tôi” mà ra.

Khái niệm về anatta hay vô-ngã thường bị hiểu sai. Nhiều người cho rằng cần phải chối bỏ “cái tôi” như là một thứ gì xấu xa và phải tháo gỡ nó. Thế nhưng đấy không phải là “cách vận-hành” của vô-ngã. “Vô-ngã” chỉ đơn giản như một “sự gợi ý” trong tâm-thức, nó là một lợi khí giúp ta suy nghĩ xem ta đích thật là gì. Và sau một thời gian luyện tập thì ta sẽ không còn xem mình là bất cứ một thứ gì nữa cả. Nếu đẩy sự lý-luận đó đến chỗ tột cùng, thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng thân xác, xúc-cảm, ký-ức, và tất cả những gì là “chúng ta” hay “của chúng ta” thật ra cũng chỉ là các hiện-tượng mà thôi, và đặc tính của hiện-tượng là liên tục hình thành, tồn tại trong một thời gian và sau đó thì biến mất. Khi nào hoàn toàn ý-thức được sự kiện mọi hiện tượng tất sẽ phải biến mất đi một lúc nào đó, thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy thật rõ ràng là tình trạng ám ảnh và bám víu của mình đối với những thứ ấy thật phù du. Chúng ta cần phải luyện tập để có thể vượt lên trên các chướng ngại tạo ra bởi các sự ám ảnh về “cái tôi” hay “cái ngã” của mình.

Sự sống là một dòng luân lưu và biến đổi liên tục. Có lúc thì ta cảm thấy mệt mỏi, có lúc thì bị tràn ngập bởi mọi thứ xúc cảm, như giận dữ, ganh tị, sợ hãi, mọi thứ thèm khát, hoặc những thứ xúc cảm thật kỳ lạ mà chúng ta không hoàn toàn hiểu hết được. Thế nhưng tất cả những thứ ấy đều là một “tiến trình chung của sự sống”. Chúng ta phải tìm cách nhận diện các hiện tượng mỗi khi chúng hiện lên, hầu có thể quan sát bản-chất của chúng: tốt hay xấu, hoàn hảo hay khiếm khuyết. Dù sao thì tất cả những thứ ấy cũng chỉ mang tính cách giai đoạn, nói cách khác là chúng cũng sẽ biến mất, tương tự như chúng đã hiện ra. Đó là cách mà chúng ta phải thường xuyên ý-thức, hầu phát huy sức mạnh nội-tâm giúp ta gỡ những mối dây của nghiệp trói buộc mình.

Chúng ta đều công nhận không thể nào chủ động hay lèo lái sự sống hầu mang lại cho mình những gì đẹp nhất, nhưng chúng ta cũng hiểu rằng sự sống cũng hàm chứa những chiều kích sâu rộng hơn những thứ ấy rất nhiều, sự sống không phải chỉ gồm có các điều tốt đẹp hay xấu xa, may mắn hay xấu số, sung sướng hay bất hạnh, những thứ ấy chỉ biểu trưng cho một khía cạnh của sự sống. Chỉ khi nào vượt lên trên được những khía cạnh chi phối bởi bản-năng ấy, thì khi đó chúng ta mới cảm nhận được những sự rung cảm thật sâu xa – như một thứ hạnh-phúc mà mình không thể mô tả được bằng lời – một sự mở rộng trong con tim, trong tâm thức mình, khiến mình có cảm giác sự sống cũng là chính mình, trong sự sống đó còn có cỏ cây, có những côn trùng nhỏ bé, có những con người khác hơn với mình, có những sinh linh trong cõi vô hình, có những sinh linh trước đây từng hiện hữu như mình nhưng nay đã khuất…

Chúng ta có thể rơi vào một sự yên lặng mà trong đó tất cả mọi thứ đều trở thành “một”. Tương tự như không gian trong gian phòng này. Không gian là như thế, bên trong nó mọi hình tướng hiện ra và biến mất đi, thế nhưng nó cũng có một thứ gì đó mà chúng ta có thể trông thấy nó và ngắm nhìn được nó. Thế nhưng sau khi ngắm nhìn nó, ta càng phát huy sự cảm-nhận ấy về không gian và chúng ta càng cảm thấy một sự mênh mông tỏa rộng, bởi vì không gian không có khởi thủy cũng không chấm dứt. Như thể là: chúng ta có thể thiết kế các gian phòng và trông thấy không gian trú ngụ bên trong các gian phòng ấy, thế nhưng chúng ta cũng hiểu rằng cả tòa nhà cũng nằm trong không gian. Vì thế không gian cũng tương tự như một thứ gì vô tận, không có một biên giới nào cả. Thế nhưng trong giới hạn của tri-thức, thị-giác thì lại có ranh giới, và cũng nhờ đó mà chúng ta có thể trông thấy không gian của một gian phòng, bởi vì không gian vô tận quá lớn đối với chúng ta. Thế nhưng cái khoảng không gian hạn hẹp đó [của một gian phòng] cũng đủ để giúp chúng ta quán thấy được sự liên hệ giữa hình tướng và không gian.

Âm thanh của sự yên lặng cũng vận hành theo cách đó, đối với các tư-duy. Nó giúp chúng ta cảm nhận được tự nhiên (sự liên hệ giữa âm thanh và sự yên lặng, cũng tương tự như sự liên hệ giữa hình tướng và không gian). Một người xao lãng chỉ nhận thấy hình tướng nhưng không trông thấy không gian, chỉ nghe thấy âm thanh và tiếng động nhưng không nghe thấy sự yên-lặng đang tỏa rộng. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta cũng thoáng thấy được một sự yên-lặng mênh mông nào đó, chẳng hạn như trong một gian phòng kín cửa hay một nơi vắng vẻ, hoặc nhận thấy một không gian bát ngát như khi đứng trên đỉnh một đồi cát giữa sa mạc hay trên một mỏm đá của một đỉnh núi cao.

Sự yên lặng mênh mông và không gian bát ngát đó cũng có thể sẽ khiến chúng ta cảm thấy một chút choáng ngợp hay sợ hãi nào đó, bởi vì chúng ta thường quen sống với tiếng động và âm thanh, với các khoảng không gian chật hẹp. Thói quen lấp đầy tâm thức mình bằng các thứ tư duy và xúc-cảm phát sinh từ các sự cảm nhận về hình tướng, mùi, vị, âm thanh và sự đụng chạm, những cảm nhận hỗn độn đó đã che lấp sự trong sáng và phẳng lặng của “tri thức nguyên sinh”.

Hãy cảm-nhận cho được về không gian vô tận, sẽ giúp chúng ta khám phá ra các chiều kích vô biên của tâm-thức. Luyện tập về các cách mang lại các tư-duy trung hòa, chẳng hạn như cảm nhận “tôi là một con người” (không phải là một cá nhân hay một nhân vật nào cả), trong con người đó không hề dấy lên một sự xúc-cảm nào. Chúng ta lắng nghe một suy nghĩ, và cố gắng chỉ nghe thấy tư-duy ấy, chỉ tư-duy về sự yên lặng bao quanh nó. Đấy là cách chúng ta quan sát được sự liên hệ giữa khả năng suy-tư và sự yên-lặng tự nhiên của tâm-thức. Bất cứ một con người nào cũng có thể thực hiện được khả năng cảm-nhận đó. Việc này sẽ khó khăn hơn nhiều nếu tâm-thức chúng ta còn tràn ngập xúc-cảm, có nghĩa là mình chưa làm chấm dứt được các sự “thèm muốn được chiếm-hữu”, thèm muốn các giác-cảm, tóm lại, là chưa buông-bỏ được tất cả mọi thứ chuyện.

Chính vì thế nên chúng ta phải cố lắng nghe và quan sát những gì xảy ra mỗi khi sự yên-lặng hiện lên, tuy rằng sự yên-lặng đó cũng có thể mang tính cách tiêu cực, chẳng hạn như: “Tôi phải làm gì bây giờ!” hoặc “Thật là mất hết thì giờ!”. Đây chỉ là các phản ứng theo thói quen phát sinh từ tâm-thức của chúng ta. Khi nào nhận biết được sự thực ấy và chấp nhận nó, ta sẽ nhận thấy các phản ứng đó sẽ tự nhiên chấm dứt. Các phản ứng xúc-cảm sẽ dần dần tan biến hết và chúng ta sẽ nhận thấy thật sáng-tỏ rằng mình chỉ là “như thế” và cái “như thế ấy” của mình cũng chỉ là một thứ gì đó có khả năng ý-thức, thế thôi!.

Chính vào lúc đó, chúng ta có thể tạo ra một nền tảng vững chắc cho toàn bộ cuộc sống của mình, dựa vào quyết tâm thực hiện những gì tốt đẹp và không làm điều ác. Quả đây cũng là một điều nghịch lý khi chúng ta cảm-thấy cần nâng cao giá trị của chính mình. Vì thế, chúng ta cũng không nên tự nhận diện mình qua các thứ ấy hay bám víu vào chúng. Tuy nhiên thiền định cũng có thể giúp chúng ta nhận biết được những gì trong tầm tay của mình chỉ là như thế, và các điều kiện trói buộc mình cũng chỉ là như thế. Đôi khi cũng phải tôn trọng và chấp nhận cả những sự bất lực của chính mình.

Biết tôn trọng và chấp nhận “cái ngã” cũng có nghĩa là biết tôn trọng và chấp nhận các điều kiện đang đeo bám mình trong kiếp sống này, và điều đó cũng có nghĩa là nên tôn trọng và chấp nhận các điều kiện ấy đúng với chúng là-như-thế, dù chúng có to lớn (thuận lợi) hay bé nhỏ (khó khăn) cũng vậy. Điều đó không có nghĩa là phải yêu quý chúng mà là phải chấp nhận chúng như một cơ-sở căn-bản giúp chúng ta luyện tập, dù cơ sở đó hạn hẹp đến đâu đi nữa.
Một tâm thức giác-ngộ thì không hề có tìm cách đạt được những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Tâm thức ấy không đòi hỏi bất cứ gì, như là: phải có một sức khỏe tốt nhất, các điều kiện tốt nhất, hoặc bất cứ một thứ gì khác tốt nhất, hầu giúp nó đạt được thể dạng giác-ngộ ấy của nó. Vì đó cũng chỉ là những gì khiến làm dấy lên cảm-tính “mình là một con người chỉ có thể hành động hữu hiệu khi nào hội đủ các điều kiện tốt nhất”. Khi nào bắt đầu hiểu được rằng sự yếu kém và các khiếm khuyết của mình, cũng như tất cả các đặc tính khác của mình, không hề tạo ra một chướng ngại nào, thì khi đó chúng ta mới có thể nhận thấy mọi sự vật một cách đúng đắn được, và khi đó chúng ta mới có thể tôn trọng và sẵn sàng xem chúng như một phương tiện giúp mình vượt lên trên mọi sự bám víu.

Nếu biết luyện tập theo cách đó thì chúng ta sẽ thoát ra khỏi mọi sự nhận diện và không bám víu vào các hình ảnh mà mình tạo dựng về chính mình. Đó là cách sử dụng toàn bộ các phương tiện mà sự sống đã ban cho mình và sự luyện tập mang lại sự giác ngộ cho mình, nó chỉ chấm dứt kể từ giây phút mà “ta không còn hiện hữu trong thế giới này nữa”.

Sự giác-ngộ luôn luôn chỉ là một thứ. Người ta thường cụ thể hóa và gọi sự giác-ngộ của Phật-giáo bằng mọi thứ tên gọi và hình ảnh khác nhau: chân như, Phật tính, tâm thức nguyên sinh, Ngộ (Satori), ánh sáng trong suốt của cái chết, thể dạng Như-lai, v.v… Thật ra, giác-ngộ chỉ là một “sự hiểu-biết” còn gọi là Trí-tuệ, đó là sự hiểu biết sáng tỏ và tường tận về bản-chất của chính mình, của tâm-thức mình và sự vận-hành của nó; của thế giới và các quy-luật chuyển động và hình thành của các hiện tượng trong thế giới này. Một cách cụ thể là sự hiểu-biết ấy sẽ giúp chuyển hóa mọi nghiệp-quả trong quá khứ và các nghiệp mà mình đang tạo ra cho mình trong hiện tại, nói một cách khác là trút bỏ được gánh nặng của các hậu-quả mang lại từ sự xao-lãng của chúng ta hầu giúp ta khả năng nghe được “âm thanh của sự yên lặng” và “sự bát-ngát của không gian vô biên” hiển hiện trong tâm thức của chính mình.

Ajahn Sumedho 
Trích – ÂM THANH CỦA SỰ YÊN LẶNG
Hoang Phong chuyển ngữ

Vài lời ghi chú của người dịch.

Điểm đáng lưu ý nhất trong bài thuyết giảng trên đây là nhà sư Sumedho đã cụ thể hóa sự "Giác Ngộ" bằng "âm thanh của sự yên lặng" và sự "vô tận của không gian" giúp chúng ta dễ hiểu hơn về việc tu tập của chính mình. Khi nào nghe thấy "âm thanh của sự yên lặng" và trông thấy được sự "vô biên của không gian" thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy được sự xao lãng kinh hoàng của những người chung quanh ta, rộng hơn nữa là của toàn xã hội và sự sinh hoạt của các tập thể con người trên hành tinh này.

Chúng ta chỉ sống với âm thanh và tiếng động, nhưng không nghe được âm thanh tuyệt vời của sự yên lặng mênh mông. Chúng ta chạy theo màu sắc và hình tướng với tất cả những sự biến dạng của chúng, nhưng không nghe thấy được tiếng gọi thật sâu của không gian vô tận. Những sự xao lãng và lạc hướng đó gây ra mọi thứ khổ đau cho mỗi người chúng ta và cả nhân loại.

Con Đường Phật giáo giúp chúng ta trở về với chính mình, tìm hiểu con người của mình, ý thức được từng tư duy, từng ngôn từ và từng hành động của mình. Đó là cách tiếp cận sự sống ngược chiều với sự xao lãng, nói một cách khác là phải phát huy một sự chú tâm cao độ hầu giúp mình lắng nghe "âm thanh của sự yên lặng" và trông thấy được sự "sâu thẳm của không gian" đang tỏa rộng trong tâm thức mình, giúp mình tìm về với "tâm thức nguyên sinh" thật tinh khiết và vắng lặng của mình.

Thật vậy, chúng ta chỉ biết sống với gió, với bão tố và cuồng phong nổi lên trong tâm thức. Thế nhưng nếu ý thức được là gió tự nó không có âm thanh, màu sắc hay hình tướng gì cả, nhất là đối với một ngọn gió hoang thì lại càng không biết là nó từ đâu thổi đến và sẽ thổi đi đâu, thì chúng ta sẽ hiểu rằng tâm thức mình chỉ là một sự vắng lặng, gió và bão tố không mang một thực thể nào cả, mà chỉ là những gì mình tự tạo ra để khuấy động tâm thức mình mà thôi.

Nếu chúng ta cột được gió hay nhốt được nó vào một gian phòng thì đấy chỉ là sự ngột ngạt, một thứ không gian hạn hẹp mà nhà sư Sumedho nêu lên trong thí dụ trên đây hầu giúp chúng ta ý thức được các kích thước to lớn hơn của tâm thức mình. Nếu chúng ta ngồi xuống để phát huy một sự chú tâm thật mạnh thì chúng ta sẽ không còn trông thấy hay nghe thấy gió đâu cả, kể cả những ngọn gió heo may hay những tiếng rì rào trong kẻ lá, mà tuyệt nhiên chỉ có không khí mà thôi. Chúng ta hít thở cái không khí đó một cách thật êm ả, tương tự như nghe thấy "âm thanh của sự yên lặng" và trông thấy sự "vô biên của không gian" trong tâm thức nguyên sinh của mình. Sự hít thở nhịp nhàng đó phản ảnh sự sống đích thật của chính mình.

Điểm đáng lưu ý thứ hai là thể dạng "Giác Ngộ" mà nhà sư Sumedho nói đến trên đây. Nhà sư Sumedho tu tập theo truyền thống "Tu trong rừng" của Phật giáo Theravada, là một phép tu gần nhất với Con Đường mà Đức Phật đã bước đi cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm. Vậy chúng ta cũng có thể thắc mắc là sự "Giác Ngộ" của Phật giáo Đại Thừa là thế nào, có phải là cùng một thứ với sự "Giác Ngộ" do nhà sư Sumedho nêu lên hay không?

Thực sự thì không có sự giác ngộ nào theo kiểu Phật giáo Theravada, và cũng không có sự giác ngộ nào theo kiểu Phật giáo Đại Thừa. Sự Giác Ngộ luôn luôn chỉ là một thứ. Người ta thường cụ thể hóa và gọi sự Giác Ngộ của Phật giáo bằng mọi thứ tên gọi và hình ảnh khác nhau: chân như, Phật tính, tâm thức nguyên sinh, Ngộ (Satori), ánh sáng trong suốt của cái chết, thể dạng Như Lai, v.v... Thế nhưng Giác Ngộ chỉ là một sự Hiểu Biết còn gọi là Trí Tuệ, đó là sự hiểu biết minh bạch và tường tận về bản chất của chính mình, về tâm thức mình và sự vận hành của nó, về thế giới và các quy luật chuyển động và hình thành của các hiện tượng trong thế giới ấy. Sự hiểu biết đó chỉ có thể mang lại bằng một sự suy tư lâu dài, một sự chú tâm kiên trì và sắc bén, nhưng không thể mang lại bởi một tâm thức xao lãng và giông bão triền miên. Một cách cụ thể là sự hiểu biết ấy sẽ giúp mình trông thấy được tất cả các nghiệp trong quá khứ của mình và các nghiệp mà mình đang tạo ra cho mình trong hiện tại, hầu hóa giải chúng, nói một cách khác là trút bỏ gánh nặng của các hậu quả mang lại từ sự xao lãng của mình hầu giúp mình lắng nghe "âm thanh của sự yên lặng" và sự "bát ngát của không gian vô biên" hiển hiện trong tâm thức mình.

Tóm lại sự Giác Ngộ lúc nào cũng chỉ là một thứ, nếu có khác biệt thì đấy là sự khác biệt giữa các con đường, không phải là cứu cánh mang lại từ các các con đường ấy. Con đường của Phật giáo Theravada rất thẳng, hướng tầm nhìn của mình về phía trước mặt. Con đường của Phật giáo Đại thừa mở rộng và tạo ra không biết bao nhiêu hướng, khiến nhiều người chạy quanh mà không biết là phải bước theo hướng nào. Trên con đường đó cũng xuất hiện thêm vô số các vị Bồ-tát và các vị Phật, khiến đôi khi chúng ta không biết là phải khẩn cầu vị nào.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thường nói rằng nếu bước theo con đường của Phật giáo Theravada thì đến một lúc nào đó chúng ta sẽ cảm thấy dường như vẫn còn thiếu một chút gì đó. Một chút gì đó chính là sự mở rộng của con đường Đại Thừa, giúp chúng ta nhìn thấy thế giới và tất cả nhân loại. Sự sinh hoạt của con người trên hành tinh mang nhiều khía cạnh khác nhau, chi phối bởi tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, văn hoá và các sự thúc đẩy bản năng, mang lại đủ mọi hình thức "xao lãng" và "nhiễu loạn", do đó một con đường mở rộng tỏ ra thật cần thiết. Thế nhưng Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng cảnh giác chúng ta là phải thấu triệt và đạt được mục tiêu nêu lên của Phật giáo Theravada, trước khi có thể bước vào con đường của Đại Thừa một cách vững chắc và đúng đắn được. Thật vậy, dường như Phật giáo Đại Thừa tự gán thêm cho mình một chút lý tưởng nào đó, thế nhưng đồng thời qua các hình thức tu tập đại chúng, cũng có thể đã tạo ra thêm một chút hoang mang và xao lãng nào đó cho người tu tập.

Vì thế thiết nghĩ ngay trong lúc này chúng ta cũng nên nghe theo lời khuyên của nhà sư Sumedho lắng nghe cái "âm thanh huyền diệu đó của sự yên lặng" vang lên từ một nơi rất sâu trong tâm thức mình. 

Bures-sur-Yvette, 06.11.15 Hoang Phong chuyển ngữ 
Đăng bởi Cội Nguồn : Thứ Tư, tháng 6 08, 2016
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

Những Đoạn Văn Hay ( Thiền Sư AJAHN - CHAH - Thiền Sư VIÊN MINH)




TRIẾT HỌC LÀ GÌ?

Để mở mang kiến thức ngoại điển, Sư cho tăng chúng học thêm triết học Đông Tây.
Sau nhiều giờ học, một chú tiểu hớn hở nói với bạn:
- Đến nay, tôi đã hiểu triết học là gì rồi.
Chú tiểu kia thì đang mù tịt cái môn phiền phức này nên như người chìm vớ được phao:
- Nói nghe mau đi, triết học là gì vậy?
-Ối, có gì đâu! Triết học chỉ là một hệ thống ngôn ngữ phức tạp nói về những điều giản đơn đó mà!

Lời góp ý:

Triết học chỉ là hệ thống ngôn ngữ phức tạp, mang tính tri thức bác học, còn Đạo thì giản dị vô ngôn, vì thế mà “có giản dị thì mới thấy được chân lý của trời đất” (Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỷ). Triết học lấy lý trí để nắm bắt, còn Đạo lấy “vô tri” mà thể nhập. Đạo để mà sống chứ không phải để thức tri. Trí tuệ minh bạch chính là vô tri, bởi vì còn có một chút “lập tri’ của kiến thức là mây mù vô minh che phủ. Vì thế khi phải phương tiện dùng ngôn ngữ làm ngón tay chỉ mặt trăng, Đức Phật không dùng hệ thống ngôn ngữ bác học phức tạp Sanskrit của Bà La Môn, mà dùng ngôn ngữ Pàli giản dị bình dân của người Màgadha. Còn Lão Tử thì nói: “Sáng suốt mọi bề có thể vô tri được chăng?” (Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ), hoặc “biết dừng lại ở chỗ không biết là tới rồi vậy” (cố tri chỉ kỳ sở bất tri chí hỷ). Thế thì một thiền sư cũng có lý khi nói:“Chân lý mà đem ra quy định quả là việc làm của kẻ ngốc nghếch”. 

VIÊN MINH



Chấm dứt hoài nghi

Nhiều người có trình độ đại học, có bằng cấp tốt nghiệp và thành công trên đường đời, nhưng vẫn cảm thấy cuộc sống của họ thiếu thốn. Dầu có tư tưởng cao xa hay thông minh hoạt bát đến đâu đi nữa, tâm của họ cũng chứa đầy những thứ vô dụng và hoài nghi. Chim kên kên bay cao đấy, nhưng nó ăn những thứ gì?

Chân lý là sự hiểu biết vượt ra ngoài tính cách điều kiện, tổng hợp và giới hạn của khoa học thế gian. Dĩ nhiên trí tuệ thế gian có thể dùng vào những mục tiêu tốt đẹp. Nhưng trí tuệ của thế gian có thể đi ngược lại với tôn giáo và giáo dục. Cái hay cái đẹp của trí tuệ siêu thế là có thể sử dụng kỹ thuật của trí tuệ thế gian mà không bị dính mắc vào chúng.

Phải học phần căn bản trước. Đó là căn bản đạo đức, giới luật, thấy được sự giả tạm của cuộc sống, thấy được hiện tượng già và chết. Đó là nơi chúng ta bắt đầu. Cũng như trước khi biết đi, bạn phải biết lật, biết bò, rồi biết... lái xe, và sau đó, có thể lái máy bay du hành quanh trái đất.

Nghiên cứu sách vở không quan trọng lắm. Dĩ nhiên kinh điển là đúng, nhưng không diễn đạt hết chân lý. Kinh điển chỉ là ngôn từ, chữ viết, mà ngôn từ và chữ viết chỉ có khả năng diễn đạt giới hạn. Chẳng hạn như danh từ "sân hận" không thể diễn tả được trạng thái nóng nảy, giận hờn, cũng như nghe nêu tên một người nào đó, khác với gặp người ấy. Chỉ có kinh nghiệm của chính bạn mới đem lại đức tin thật sự.

Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là tin tưởng một cách mù quáng vào Phật, Pháp và vị thầy -- thông thường là người đầu tiên hướng dẫn mình hành thiền hay cho mình xuất gia. Loại thứ hai là Chánh Tín -- đức tin chắc chắn, không lay chuyển, phát sinh từ sự hiểu biết của chính mình. Mặc dầu vẫn còn những phiền não khác cần vượt qua, người thấy một cách rõ ràng sự vật bên trong chính mình, có thể dứt được hoài nghi, đạt được đức tin trong việc thực hành.

AJAHN CHAH 



Hãy để cho cây mọc tự nhiên

Đức Phật dạy rằng sự vật diễn biến theo đường lối riêng của nó. Một khi bạn đã làm điều gì, bạn chẳng cần phải nhọc công theo dõi kết quả của nó, hãy phó mặc cho thiên nhiên, để cho nghiệp lực tự vận hành và tích lũy. Nỗ lực tinh tấn không ngừng, đó là việc của bạn. Còn chuyện trí tuệ đến nhanh hay chậm chẳng cần để ý làm gì. Bạn không thể thúc ép nó được. Chẳng khác nào khi trồng cây bạn không thể thúc ép cây mọc nhanh hơn. Cây có bước tiến của nó. Nhiệm vụ của bạn là đào lỗ, trồng cây, tưới nước, bón phân, trừ sâu, v. v. Nhưng cây mọc thế nào là chuyện của cây. Việc hành thiền của bạn cũng vậy. Bạn hãy vững tin là mọi chuyện sẽ tốt đẹp: cây của bạn sẽ mọc tốt.

Thế nên bạn phải biết việc làm của bạn khác với việc làm của cây. Hãy để cho cây lo cho cây và bạn làm bổn phận của bạn. Nếu tâm không biết làm việc gì nó cần phải làm thì nó sẽ thúc ép cây mọc nhanh, đơm hoa kết trái trong vòng một ngày. Đó là quan kiến sai lầm, nguyên nhân của đau khổ. Cứ hành thiền đúng và để phần còn lại cho nghiệp lực của bạn. Và, dầu cho nó có trải qua một đời, trăm đời hay ngàn đời đi nữa cũng chẳng ăn nhằm gì, việc hành thiền của bạn sẽ gặt hái kết quả tốt đẹp.

AJAHN CHAH 



Tình yêu thật sự

Tình yêu thật sự là trí tuệ. Tình yêu như phần lớn mọi người nghĩ chỉ là một cảm giác tạm. Có một món ăn thật ngon, nhưng nếu mỗi ngày bạn đều ăn như thế, chẳng bao lâu bạn sẽ chán lên tận cổ. Cũng thế, tình yêu đó cuối cùng đi đến thù hận và phiền muộn. Hạnh phúc thế gian bao gồm tham ái và luôn luôn dính liền với đau khổ. Thật vậy, đau khổ theo sau hạnh phúc thế gian như cảnh sát theo sau tên trộm.

Tuy thế, chúng ta không thể loại bỏ hay ngăn trở loại cảm giác này. Chúng ta không nên dính mắc hay đồng hóa với chúng mà chỉ cần biết chúng là gì, sau đó Pháp sẽ có mặt. Một người yêu một người khác rồi cuối cùng người yêu ra đi hay lìa đời. Than khóc hay nhớ tưởng lâu dài, nắm giữ cái đã thay đổi là đau khổ chứ không phải là tình yêu. Khi chúng ta thể nhập chân lý, không còn cần hay muốn nữa, trí tuệ và tình yêu thật sự sẽ lấn át tham ái và tràn ngập thế gian.

AJAHN CHAH



Thế nào là tự nhiên

Nhiều người muốn hành đạo một cách "tự nhiên." Họ than phiền rằng lối sống ở đây không hợp tự nhiên.

Tự nhiên là cây trong rừng. Nhưng nếu bạn cất một ngôi nhà trong đó, phải chăng sự tự nhiên không còn nữa? Nếu bạn biết cách sử dụng cây, xẻ gỗ và cất nhà, cây sẽ có giá trị với bạn nhiều hơn. Hoặc giả như con chó tự nhiên chạy đây chạy đó theo sau cái mũi của nó. Ném một khúc xương thì cả đám chó chạy đến cấu xé nhau. Phải chăng đó là tự nhiên mà bạn muốn?

Nghĩa đúng thực của tự nhiên có thể khám phá ra bằng giới luật và sự hành thiền. Sự tự nhiên này vượt qua thói quen, điều kiện và nỗi sợ hãi của chúng ta. Nếu để tâm con người tự do tiến đến cái gọi là tự nhiên theo cảm tính, không cần rèn luyện -- cảm xúc thế nào thì làm theo thế ấy, thì tâm sẽ dẫy đầy tham lam, sân hận, si mê. Và đau khổ cũng phát sinh từ đấy.

Qua thực hành chúng ta có thể cho phép cây trí tuệ và tình thương trưởng thành một cách tự nhiên, bất kỳ nơi đâu, cho đến khi nó đơm hoa kết trái.

AJAHN CHAH 




Có ông tăng thuyết pháp rất lưu loát nhưng giới hạnh rất bê bối. Những người nghe pháp thì rất nể trọng pháp sư còn những người thấy đời sống của ông thì không thể nào chịu phục.
Được hỏi về con người thật của vị pháp sư, thiền sư nói:
- Con người thật nhập Niết bàn rồi.

Lời góp ý:

Khi còn vô minh ái dục thì mỗi người đều có hai bộ mặt, đó là con người thật và con người giả. Con người giả chính là vọng ngã, thủ đắc bởi những yếu tố ngoại lai như ý niệm, tư tưởng, quan niệm, tình cảm từ môi trường sống: hoàn cảnh xã hội, trường học, gia đình, bè bạn,... Những tập tính hay tập khí đó được huấn tập dần dần cho đến khi mình trở thành... một kẻ lạ mặt (từ của Albert Camus), càng ngày càng xa rời tự tánh, càng xa lạ với con người thật.

Con người giả cũng không phải đơn thuần, anh ta vô cùng đa diện: khi thì anh, khi thì em, khi thì cha, khi thì chú, khi vui lúc giận chẳng chút giống nhau. Vì vậy anh ta luôn luôn tự mâu thuẫn với chính mình cả tri thức lẫn tình cảm, cả hành động lẫn lý thuyết. Vì vậy chẳng có gì ngạc nhiên khi anh ta nói một đường làm một nẻo. Thực ra ai mà chẳng thế khi mình còn đa mang những con người xa lạ.

Còn con người thật ở đâu? Sư nói: “Con người thật nhập Niết bàn rồi”. Câu này hàm ý hai nghĩa:

1) Con người thật đã (bị con người giả giết) chết rồi. Ý nói anh ta chỉ là con người giả chứ làm gì còn có con người thật.

2) Con người đích thực chính là bản lai diện mục, chân như tự tánh, mà chân như tự tánh thì lúc nào lại chẳng ở nơi Niết bàn. 

VIÊN MINH



Thiền cách nào hay nhất?

Hầu như suốt ngày Ajahn Chah phải bận rộn tiếp khách -- sinh viên, nông dân, chính trị gia, tướng tá, khách hành hương, thiện nam tín nữ. Họ đến xin ngài chúc phúc, để thỉnh ý, hỏi đạo, vấn an, bắt bí, thử thách, phân trần, chỉ trích, khiếu nại...; họ đem đến hàng ngàn vấn đề để giải quyết. Ajahn Chah không ngừng dạy dỗ họ. Có người hỏi ngài về chuyện này, Ajahn Chah trả lời:

-- Tôi đã học hỏi được nhiều giáo pháp khi tiếp xúc với họ, nhiều hơn tất cả các cách hành thiền khác.


AJAHN CHAH 



ĐỒNG HAY BẤT ĐỒNG

Một học giả nghiên cứu về những điểm dị đồng giữa các tôn giáo hỏi ý kiến Sư:

- Đạo Khổng nói “thuận thiên lập mệnh”, Đạo Thiên Chúa nói “vâng ý Cha”, Đạo Lão nói “Đạo pháp tự nhiên”, còn Đạo Phật cũng nói “Tùy Pháp Hành”. Những giáo lý ấy có giống nhau không?

Sư nói:

- Giống ở người thấy, không giống ở người không thấy.

Lời góp ý: 

“Người nằm xuống từ ngàn xưa vang bóng
Ta bước qua từ ngữ rụng hai lần”.

(Bùi Giáng)

Đức Phật, Lão Tử, Khổng Tử và Đức Chúa Jésus đã tịch diệt và để lại cho đời ngôn- ngữ - chỉ- bày- chân- lý riêng biệt của các Ngài. Hậu thế đáng lẽ phải biết vượt qua ngôn ngữ đó để thấy chân lý, thì lại một lần nữa dùng ngôn ngữ để triển khai ngôn ngữ. Thế là những lời dạy trực tiếp và dung dị đi thẳng vào sự sống của các bậc Đạo Sư được những người “quá thông minh” biến thành những hệ thống tư tưởng đầy ý niệm, biểu tượng và luận lý. Người ta không biết rằng, tư tưởng càng cao siêu bao nhiêu càng xa rời chân lý bấy nhiêu. Ví như có người muốn biết gỗ gì sau lớp sơn mà không chịu cạo bỏ lớp sơn ấy đi lại còn gia công tô phết thêm vào. Cũng vậy, các Luận Sư, Đạo gia, Nho gia và các nhà Thần học tưởng có công triển khai đạo giáo của các bậc Giáo chủ, ngờ đâu chỉ vẽ rắn thêm chân, che mờ đạo lý của các Ngài.

Những bậc Thánh hiền xưa được các bậc Đạo Sư trực tiếp khai ngộ, chỉ cần “từ ngữ rụng” một lần là thấy đạo. Sau thời các Luận Sư thì ngôn ngữ phải rụng tới hai lần mới thấy ra sự thật. Còn thời nay, không biết “từ ngữ” phải “rụng” đến mấy lần mới thấy ra chân lý?

May thay, chân lý luôn luôn hiện hữu nên “người có mắt” vẫn có thể “thấy”bất cứ lúc nào mà không cần qua lăng kính ngôn ngữ hoặc biểu tượng của thế giới lý trí vọng thức. Bấy giờ, mọi dị biệt của ý niệm đều tiêu tan để nhường chỗ cho thực tại hiện tiền vô sinh bất diệt. 

VIÊN MINH 

Đăng bởi Cội Nguồn : Thứ Sáu, tháng 11 16, 2012
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

Sự Suy Niệm Của Nội Tâm - U Jotika


Thiền tập:

Hành thiền không phải để tạo ra bất cứ điều gì (hoặc sự tập trung, sự bình tĩnh, hay sự thấu hiểu v.v...) và chỉ để nhìn thấy rõ bất cứ cái gì đang xảy ra trong khoảnh khắc hiện tại với một cách thật đơn giản. Thay vì dự định hoặc tạo ra một sự bình thản hoặc sự thấu hiểu thì quý vị hãy cố gắng từ cái điểm đầu tiên của mình. Bởi vì quý vị luôn luôn đi lùi về phía sau của con đường.

Sự thiền tập cũng giống như sự nỗ lực để học cách chạy một chiếc xe đạp. Tại lúc đầu, quý vị nỗ lực nhiều và quý vị sẽ bị vấp ngã trong lúc luyện tập. Sau đó bằng việc luyện tập thường xuyên quí vị sẽ học được cách nỗ lực vừa đủ để giữ cho quý vị có thể ngồi trên chiếc xe đạp một cách vững chắc và quý vị có thể duy trì sự nỗ lực một cách quân bình để tiến về phía trước.

Do đó việc hành tập cũng vậy, quý vị có thể dùng cách này để áp dụng trong việc hành tập thiền Vipassana của mình. Theo tôi thì cái điều quan trọng nhất là sự liên tục. Nếu quý vị hiểu được ý nghĩa của sự chánh niệm là như thế nào, quý vị sẽ chánh niệm được nhiều hơn. Để chánh niệm quý vị phải học cách làm thế nào để có chánh niệm với sự nỗ lực vừa đủ. Nếu nỗ lực thực hành thì quý vị sẽ thấy được sự ảnh hưởng của chánh niệm đối với tâm là như thế nào. Quý vị sẽ phải học cách để duy trì sự chánh niệm và quý vị sẽ nhận thấy tâm của mình sẽ không an tịnh khi nó không có chánh niệm.

Nên chọn một hoặc hai đối tượng thích hợp cho mình, và chánh niệm một cách liên tục, và sự liên tục là điều quý vị cần phải ghi nhận nhiều nhất. Sự suy nghĩ không thể làm cho tâm của quý vị được hạnh phúc mà quý vị chỉ nên nhìn những cái suy nghĩ mà không mong cầu để chế ngự nó. Khi quý vị nhìn đối tượng một cách rõ ràng thì chúng sẽ biến mất. Sự suy nghĩ làm một cản trở cho việc hành tập.


Đừng cố làm cho tâm quý vị an tịnh hay bình thản, chỉ làm một điều duy nhất là hãy chánh niệm hoàn toàn những gì trong hiện tại, thật đơn giản. Nếu có bất cứ câu hỏi nào khởi lên trong tâm. Quý vị chỉ cần nhìn nó rồi tiếp tục đi và đừng cố để tìm ra câu trả lời. Tự nó sẽ trả lời sau.

Hành thiền khi được hướng dẫn và luyện tập với nhiều phương pháp thiền khác nhau, nó có giới hạn của chính nó. Đó là vì họ không hiểu nó một cách chính xác và họ đang cố để làm cho nó trở thành một cái gì đó bên ngoài cuộc sống của họ. Nhưng sự chánh niệm thật sự là sự tập trung duy nhất. Chánh niệm không thể tách rời khỏi đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Khi đó mọi khía cạnh cuộc sống của chúng ta ắt sẽ được hiểu một cách đúng đắn.

Trong việc hành thiền bất cứ việc gì đến một cách dễ dàng và tự nhiên, quý vị sẽ thấy thú vị và nó sẽ gây thích thú để tiếp tục hành thiền. Ắt là có sự thỏa thích trong việc hành tập. Sẽ có một cách suy nghĩ đối nghịch với đối tượng, một khi bất cứ một điều gì khởi lên làm cho quý vị chán nản, bất toại nguyện. Người ta thường nói: "Sự tự tin đem đến một năng lực". Vâng, khi quý vị có sự tự tin trong việc hành tập thì quý vị sẽ có được nghị lực cố gắng để hành tập. Trước khi tôi trở thành một nhà sư, tôi đã đọc rất nhiều sách về thiền Minh Sát Tuệ, do đó tôi nghĩ rằng mình hiểu tất cả về thiền. Sau khi trở thành một nhà sư được một năm, tôi đã tự nghĩ rằng "Tôi hiểu được thiền là như thế nào?", và sau khi trở thành tu sĩ khoảng 3 năm tôi lại tự hỏi: "Tôi đã hiểu được thiền là gì chưa?" Và cứ thế tôi luôn đặt câu hỏi cho chính mình.

Hành thiền đem lại cho chúng ta một sự lợi ích cao thượng.

Người ta thường nói: "Những kinh nghiệm trong hành thiền thì rất sâu sắc" và một số quý vị muốn biết ý nghĩa của câu nói này như thế nào.

Chánh niệm là sự hay biết trạng thái của tâm hay là sự tỉnh thức. Việc hay biết cái gì đang xảy ra trong hiện tại mà không có bất cứ một định kiến nào.

Trong cuộc sống hiện tại hằng ngày, nhiều người đã hành thiền nhiều nhưng họ không thấy được cái tham, sự mong cầu, sự thù hận, sự giận dữ, sự ganh tỵ và sự bỏn xẻn. Rất nhiều phương pháp thiền đã không thấy được tầm quan trọng của việc nhìn thấy những ô nhiễm đang sanh khởi trong tâm hằng ngày, với một cách thật là chân thật trong cuộc sống của họ, và sức ảnh hưởng của nó đối với những hành động hằng ngày.

Tôi muốn nhấn mạnh về sự chánh niệm trong lúc nói chuyện, đó là lúc người ta ít chánh niệm nhất. Hầu hết những phương pháp thiền đều có một thời gian biểu để hành tập, và họ chọn một số đề mục như hơi thở sự phồng xẹp của bụng, sự xúc chạm và những cảm giác. Họ có quyền chọn lựa đề mục thích hợp cho mình ngay từ lúc bắt đầu hành tập và là đề mục duy nhất. Theo sự hiểu biết của tôi thì cho dù phương pháp nào thì quý vị cũng phải cố để nhận thức được những sự ô nhiễm trong tâm của quý vị ngay từ lúc bắt đầu.

Tôi suy nghĩ về Buddha nhiều, tôi có một bức tranh vẽ Đức Phật đang ngồi với một sự tập trung cao độ. Ngài ngồi dưới cội bồ đề già với những rễ cây tủa xuống từ những nhánh ở trên, có một vài chú thỏ đến gần Ngài và kế bên là một cái hồ khá rộng và hoang sơ cùng với những đóa hoa sen đang nở rộ. Ở phía xa của bờ sông là một khu rừng rộng lớn và những dãy núi cao và ánh trăng trên những ngọn núi đó đang tỏa sáng. Trên mặt hồ với những gợn sóng lăng tăng, hòa với một không gian yên tĩnh và thật thanh bình. Và Đức Phật ở đó, vị Giáo chủ của chúng ta đang ngồi trong tư thế hoàn toàn tỉnh lặng, mà không hề có một bất cứ một sự hiện hữu nào của tham, sân, si thật là một biểu tượng hoàn hảo của sự thanh bình. Khuôn mặt Ngài đang tỏa rực sáng với một luồng ánh sáng màu trắng thật mát dịu, khuôn mặt của Ngài, đôi vai, cánh tay, lưng và chân tất cả thật thoải mái, hoàn toàn thanh thản, không có bất cứ một sự căng thẳng nào toát ra trên khuôn mặt của Ngài, và tôi đang ngồi dưới cội cây gần đó (nhưng tôi thì không thật sự ở trong bức tranh đó) và tôi thật sự cảm thấy thanh thản. Quý vị cũng sẽ cảm nhận như chúng tôi chứ!

Nói như thế để quý vị thấy rằng trí tưởng tượng thật sự rất mạnh mẽ. Khi quý vị tưởng ra một trạng thái thanh bình thì lúc đó tâm trở nên thanh thản. Và có thể nếu quý vị cảm thấy sợ hãi trước cái chết là do tưởng tượng ra một cảnh tượng hãi hùng. Từ đó tâm của quý vị sẽ chọn lựa những trạng thái thanh bình, yên tỉnh như đang hành thiền gần Đức Phật của chúng ta, tất cả những cái đó đều do tưởng mà ra. Ví dụ như quý vị tưởng rằng mình đang ở trong hang núi sâu, lạnh lẽo và gần bên là Đức Phật, và quý vị cảm thấy thật tỉnh lặng, an toàn và được bảo vệ, thoát khỏi những ô nhiễm từ bên ngoài.

Nếu quý vị ngồi quá nhiều thì hệ thống cơ thể của mình sẽ không hoạt động tốt, hãy tập một số bài yoga, nó cũng rất hữu ích cho bạn, quý vị sẽ cảm thấy mệt mỏi nếu quý vị không thiền hành thường xuyên. Do đó thiền hành cũng quan trọng không kém phần quan trọng so với thiền tọa.

Hãy thực hành với một cái tâm trọn vẹn, nếu bạn muốn đạt được những lợi ích trong việc hành thiền. Hãy thực hành chánh niệm cũng như đây là một điều tất yếu duy nhất mà quý vị cần làm trong cuộc sống của mình. Hãy tỉnh thức với những xao lãng của nội tâm.




Cách nhìn tâm

Chánh niệm là một cách sống. Bất cứ nơi nào mà quý vị đến và bất cứ điều gì mà quý vị làm đều phải được chánh niệm.

Suy nghĩ là một cản trở lớn trong chánh niệm. Dĩ nhiên để ghi nhận được những suy nghĩ là điều rất quan trọng và nhìn cái tâm của quý vị với cái tâm không xét đoán hoặc khiển trách. Chỉ nhìn nó một cách thật đơn giản, cũng không có tôi ta.

Khi có sự so sánh hay ngã mạn trong tâm mình, hãy cố gắng nhìn nó thật rõ ràng đó là điều quan trọng. Khi đó là tâm của quý vị tự nó sẽ được thư giãn. Chỉ khi nào trở thành bậc toàn giác thì mới hoàn toàn thoát khỏi sự ngã mạn. Đừng thực tập sự khiêm nhường, nó sẽ bị gượng ép, chỉ chánh niệm về sự ngã mạn. Nếu quý vị thấy rõ tâm mình thì quý vị tự nhiên sẽ trở nên khiêm nhường mà không hề bị gượng ép. Nếu quý vị luôn tỉnh giác trong hành động của mình thì quý vị sẽ chế ngự được cái ta.

Hãy chánh niệm và hiểu thấu đáo những cái ảo tưởng, những ý muốn mà quý vị ưa thích, sự ngăn cản, trạng thái trống vắng hay bất cứ một cảm giác nào khác cho dù nó thô hay vi tế.

Hãy chánh niệm những tác ý của quý vị khi quý vị đang làm việc. Hầu hết quý vị đã không ghi nhận được những tác ý khi quý vị nói chuyện hay đang làm việc. Hầu hết họ cho là đúng khi mà họ thật sự ghi nhận được những tác ý của họ.

Trải qua nhiều năm tôi luôn nhìn tâm của mình, vì thế tôi rất rõ cái tâm của mình, tôi biết nó khờ khạo, có lúc hoan hỷ, và hay tinh nghịch v.v... Vì tôi luôn ghi nhận một cách trọn vẹn và nó không thể làm cho tôi xao lãng được.

Tất cả những gì mà tôi có thể chia sẻ cùng quý vị không phải là sự suy nghĩ mà là sự chánh niệm. Quý vị có thể chia sẻ cùng những người bạn của mình là làm thế nào để ghi nhận được cảm giác hay những suy nghĩ mà chỉ đơn giản là ghi nhận một cách thức tỉnh vừa đủ đối với nội tâm của quý vị. Mà trong đó luôn có sự xét đoán, phê bình, hoặc là những cuộc độc thoại v.v...

Hãy chánh niệm mặc dù điều đó sẽ gặp nhiều trở ngại. Khi quý vị nghĩ rằng vào lúc này ta không thể chánh niệm được thì lúc đó là lúc quý vị cần chánh niệm nhiều nhất.

Và một điểm quan trọng nữa về sự chánh niệm là quý vị phải luôn chánh niệm. Các điểm tương đồng để giữ giới luật đối với một tu sĩ hay là một người Phật tử là nếu quý vị nói rằng thực hành giáo pháp là một điều rất đúng đắn, và quý vị sẽ giữ giới đồng thời chánh niệm trong sự thu thúc và cố gắng hết mình, nhưng khi quý vị bị những ô nhiễm bên ngoài chi phối thì khi đó quý vị sẽ không đặt trọn niềm tin vào giáo pháp. Tôi lấy một ví dụ một người phạm tội ngoại tình khi mà họ đã kết hôn rồi (thật là sự so sánh buồn cười). Từ đó mối quan hệ giữa hai người trở thành một sự giả tạo. Quý vị không thể có được niềm vui thật sự, càng ngày quý vị càng sa sút hơn. Thật sự đó là cách mà tôi nhìn nhận sự việc. Do đó chúng ta phải thành thật với những gì chúng ta đang làm cho dù đó là giới luật hay là sự chánh niệm hoặc bất cứ việc gì khác. Nói một cách khác quý vị đừng quá quan tâm rằng mình đang làm cái gì và cũng đừng quá coi trọng chính bản thân mình, nói như vậy để quý vị hiểu rằng không phải quý vị coi trọng việc mình đang làm là quý vị sẽ không được an vui, hay không thành công. Nói một cách khác sự chánh niệm không có tác ý hay bất cứ sự suy nghĩ nào mà nó chỉ nhìn sự vật một cách rõ ràng mà không xét đoán, không mong cầu. Hãy thực hành chánh niệm để thấy những gì đang xảy ra trong hiện tại, chỉ đơn giản thế thôi.

Thật là thú vị khi chỉ có một mình để hành thiền trong nhiều tháng qua, tôi không muốn đọc quá nhiều sách hay nghiên cứu bất cứ điều gì từ những quyển sách mà tôi chỉ muốn đọc chính là cái tâm của mình nhiều và chỉ duy nhất là nhìn nội tâm một cách rõ ràng, và chắc chắn là tôi sẽ học được điều gì đó sâu sắc từ chính cái tâm của mình.


Chánh niệm là một điều cao thượng mà tôi có thể làm cho chính mình. Nếu tôi nhìn tâm mình một cách sâu sắc mà không có mong cầu để thay đổi thì chánh niệm sẽ tháo gở những gút mắc trong tâm của tôi.

Do đó, quý vị có thể thực hành chánh niệm vì lợi ích của nó thì quý vị sẽ hiểu được chánh niệm một cách sâu sắc hơn.

Chánh niệm đem lại cho tôi một năng lực dồi dào nó làm cho tôi luôn trong tư thế sẵn sàng. Tương tự như tôi là một người khám phá ra một hành trình để đi vào thế giới chưa được biết đến. Bất cẩn là một thái độ không tốt, hãy quan sát và xem lại thái độ của mình, tôi luôn cẩn thận với bất cứ một hoạt động nào mà tôi làm và tôi luôn luôn quân bình tâm của mình.

Đứa con gái của tôi thì đang cố suy gẩm về cái tâm và nó đang tỉnh thức về những suy nghĩ và những cảm giác tinh thần của nó. Tính cách nó giống tôi và những sở thích cũng vậy. Tôi không quan tâm đến mình mà tôi chỉ quan tâm đến những đứa con của tôi, tôi hy vọng chúng luôn cố gắng để nhận thức cái tâm của chúng.

Cái tâm rất là xảo quyệt nó muốn những điều khác lạ và những thay đổi. Sự chán nản là một vấn đề quan trọng, nó luôn khao khát những thú vui, và những kích thích mà đó là những gì mà hành giả thường gặp phải là luôn chạy theo những thay đổi của sự kích thích.

Người ta thường nói rằng họ muốn hạnh phúc, nhưng làm thế nào được khi mà họ không quan tâm đến việc chánh niệm. Bởi vì họ nghĩ chánh niệm hiện hữu ở một nơi nào khác, trong những trạng thái thỏa mãn hay những gì mà họ đạt được hoặc trở thành một người có vị trí cao trong xã hội mà còn những cảm giác toại nguyện.

Hãy nhìn tâm của mình và ghi nhận những gì đang xảy ra. Tất cả những vấn đề trong tâm của quý vị sẽ biến mất nếu quý vị hiểu rõ cái tâm của mình. Bởi vì những trở ngại đều do tâm tạo ra mà không có bất cứ một sự liên quan nào từ bên ngoài cái tâm.

Không có bất cứ sự thay thế nào có thể đem lại lợi ích bằng sự chánh niệm. Quý vị thường nói rằng: (Nếu tôi thực hành một cách liên tục thì những vấn đề trong tâm tự động biến mất). Chúng ta thường nói rằng là mình hiểu và luôn luôn nói "Nếu". Đó là cái gì mà chúng ta phải thực hành nó tại sao lại nếu? Dường như chúng ta không muốn những vấn đề trong tâm được giải tỏa, hay chúng ta không thực sự tin tưởng rằng chúng ta có thể làm được điều đó. Vì thế mà chúng tôi chỉ nói suông thôi, chính điều này khiến chúng ta hy vọng. Đến khi chúng ta cố gắng thực hành và sẽ có những trở ngại, khi đó chúng ta sẽ không còn hy vọng để tiếp tục con đường của mình, và thế là ta nghĩ rằng thế thì tốt hơn là mình không nên cố gắng để theo đuổi cái công việc huân tập này nữa mà chỉ là sự hy vọng thôi. Đây thực sự là những cái thủ đoạn của tâm nhằm bảo vệ chính nó từ những cảm giác thất vọng mà nó chưa bao giờ làm bất cứ điều gì một cách trọn vẹn.

Thật là hữu ích để học hỏi chính cái tâm và chính cái cuộc sống hơn bất cứ điều gì khác, nhưng hầu hết họ không dám đối mặt với sự thật. Họ đang chạy xung quanh chính họ, và họ không đủ can đảm để đối đầu với chính họ. Quý vị nghĩ rằng mình sợ hãi và mất thăng bằng nếu phải đối diện nhiều với chính quý vị. Nhưng tôi không nói nhiều về những điều tôi nghĩ mà tôi nói về những điều tôi ghi nhận được. Nếu quý vị suy nghĩ về mình quá nhiều thì quý vị sẽ bị mất thăng bằng. Khi quý vị thật sự chánh niệm thì quý vị sẽ hiểu làm thế nào để sống tốt đẹp hơn đối với cuộc sống của mình và quý vị sẽ hiểu được phải làm cái gì trong bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến với quý vị.

Những hiện tượng mà nó hiện hữu tại thời điểm hiện tại là điều duy nhất mà tôi có, cho dù tôi thích hay không thích, vì thế đó mới là điều quan trọng đối với tôi, do đó những thay đổi lệch lạc nhỏ tôi đều quan sát chúng một cách dễ dàng.

Có một loại tâm hôn trầm mà nó luôn hiện hữu ở trong tâm. Chúng ta cần một điều gì phấn chấn, một loại kích thích, hoặc nói chuyện hay đọc sách, đi đây đó... để giữ cho tâm tỉnh thức. Nói một cách khác nó ở trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Nếu quý vị có thể huân tập để tâm mình luôn tỉnh thức mà không cần bất cứ một sự phấn khích nào thì quý vị sẽ cảm nhận được một loại năng lực mới. Chỉ duy nhất khi quý vị có được sự chánh niệm xuyên suốt thì quý vị sẽ đạt được. Cho dù quý vị có ẩn dật hay không thì nó cũng quan trọng để chánh niệm được xuyên suốt. Sống ẩn dật thì rất hữu ích, nó rất quan trọng để duy trì việc hành tập của quý vị, vì thế quý vị có duy trì sự sáng suốt của tâm. Còn ngược lại thì quý vị sẽ bị sa sút. Nó giống như việc bơi ngược dòng, nếu quý vị không cố gắng thì quý vị sẽ đi xuôi dòng.

Có vài tờ báo cũ trong một cái hộp, tôi bắt đầu đọc những tờ báo đó, và nhìn tâm của mình, sự dễ vui, sự thú vị, việc lãng phí thời gian và sự vô ích! Đó là những gì tâm khởi lên trong lúc đọc báo. Quý vị cần chánh niệm nhiều để không bị lôi kéo vào những cuộc đối thoại nơi tâm. Tôi thích yên tĩnh hơn vì nó tốt hơn cho sự bình thản nơi tâm của tôi.



Tôi cố gắng chánh niệm khi lái xe, nói chuyện với mọi người hay đang làm việc. Một cơ hội tốt cho tôi để thực hành chánh niệm là khi tôi bận rộn. Đó là sự thực hành mà tôi muốn chia sẻ cùng quý vị.

Khi tôi còn trẻ, tôi đã đọc rất nhiều sách viết về những nhà thám hiểm, và tôi rất thất vọng khi tôi nhận thấy không có bất cứ nơi nào còn lại trên thế giới mà vẫn chưa được khám phá bằng nhiều cách khác nhau. Mãi đến bây giờ chỉ có duy nhất chánh niệm là cái phương tiện tốt nhất dể khám phá ra cái thế giới tâm linh, ngoài ra những cái phương tiện khác đều vô ích và đem đến thất bại.

Tôi không được thông thái cho lắm mà thỉnh thoảng lại hay ngớ ngẫn. Sự chánh niệm trong tâm tôi là cái la bàn cho tôi, khi tôi làm bất cứ lỗi lầm gì thì chánh niệm luôn luôn nhắc nhở tôi rằng tôi đang phiền não.

Thậy vậy hành thiền một mình thì dễ hiểu hơn nhiều, và tôi thì cũng không một tham vọng lớn lao mà chỉ sống một cách đơn giản và nhìn một cách rõ ràng. Tôi không thể thay đổi thế giới này hay bất cứ một ai, thậm chí cả tôi cũng vậy. Nhưng tôi chỉ có thể ghi nhận, chỉ nhìn mà không có bất cứ sự buồn phiền nào đối với ai, tôi luôn tự hỏi mình là ai mà có thể gánh vác cái thế giới này trên đôi vai của mình?

Hãy làm bất cứ gì quý vị muốn, cứ hành thiền và xem xét lại chính mình, tôi tin rằng quý vị sẽ hiểu được điều gì đem lại lợi ích thiết thự cho quý vị. Quý vị cứ chánh niệm có lẽ tôi sẽ giúp cho quý vị vài lời khuyên.

U Jotika
Từ nguồn Thiền Quán Tâm
Sưu Tầm: Nguyễn Thị Quế Anh