Chủ Nhật, 17 tháng 9, 2017

Đạo Sĩ Và Hư Vô





Ta ngồi mãi giữa hư vô lòng núi
Bỗng thấy chiều hớt hải đuổi theo mây
Khối thời gian rơi vào triền đá lặng
Hiện tại nào mất hút ở đầu cây.

Đời đạo sĩ, con còng già bỏ tổ
Lên non cao còn sợ nước triều lên
Bụi đầy áo, phủi hoài tay cũng mỏi
Có nhiều khi ẩn dật cũng ưu phiền.

Ta ghé bến đìu hiu tìm hạt lệ
Rơi quanh mình với nỗi chết xanh xao
Hoa đốm bay đã vô tri tròng mắt
Còn bầu trời ai hái những vì sao!

Đời đạo sĩ, con chim trên đỉnh núi
Ngợi ca ngày nắng mới, giữa mù sương
Chim rướm máu bởi hồn thơ u khoát
Rớt xuống trần như lửa cháy tà dương.

Ta bước xuống, đêm, và vầng trăng lạnh
Khóm lau già run rẩy nước sương mưa
Trọn thân thế ta chối từ vinh hạnh
Theo con đường lặng lẽ tự ngàn xưa.

Chừ vô biên chỉ còn là hơi thở
Và nụ cười bất diệt ở quanh đây
Đời đạo sĩ, con còng già bỏ tổ
Hóa thân làm lau cỏ ở đồi tây!

( MDTTA)
Tánh Thuẩn
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2017

Môi Trường Sống Với Cái Nhìn Duy Thức



Trong kinh “Phật thuyết Bát đại nhân giác” có lời dạy:

“Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp”

Đây chỉ là một phần của bài kệ nhưng đã biểu hiện đến độ sâu thẳm khi ta trầm tư trong tỉnh lự. Trong thời đại ngày nay, con người đã đạt được những khám phá kỳ diệu của vũ trụ, của những thành tựu khoa học công nghệ. Nhưng hình như còn nhiều vấn đề về bên trong nội tâm con người, cũng như về bản chất thực sự, chưa thu được những kết quả tương xứng. Theo thuật ngữ của Phật giáo, con người đang còn vây kín bởi vô minh, kết quả là con người giải thích sai lầm mọi điều, và hành động theo sự sai lầm ấy, nên khoác lên mình một lý lịch sai lầm của cái ngã ích kỹ cao ngạo.

Con người là quả cao nhất trên cây tiến hoá, nên con người cần phải hiểu được vị trí của mình trong tự nhiên và hiểu được ý nghĩa thực sự của đời mình. Nhưng dường như, chúng ta không thích đối đầu với sự thật của đời sống: sự thật đối với tha nhân và xã hội; sự thật với thiên nhiên và vũ trụ. Trái lại, chúng ta ưa thích tự ru ngủ bằng cảm giác an tâm giả tạo trong giấc mơ và tưởng tượng hảo huyền, điều động bởi dục vọng vật chất mang tính mù quáng và không có điểm dừng.

Ý của Kinh dạy: muốn thoát khỏi phiền não, phải quan sát sự tri túc. Người không tri túc thường bị ngũ dục lôi kéo. Tri túc là: phải hiểu và trân trọng tất cả những gì mình vốn có. Tri túc thì luôn được an lạc. Tinh thần “thường niệm tri túc” được xem là quan trọng để trở thành một con người giàu có và hạnh phúc theo nghĩa xa lánh được những khát vọng thấp kém, bn chen lợi danh, tranh giành quyền thế. Với cách sống này, con người có điều kiện đi vào cảnh giới an lạc, hạnh phúc và giải thoát bằng từng hành động của thân, khẩu, ý. Cảnh giới ngoài sự điều động của tham, sân, si được gọi là cảnh giới vô vi; cảnh giới của “không đến, không đi” của “không sanh, không diệt“, hay của sự đoạn diệt khổ.

Trí tuệ Duyên khởi xác minh sự cộng tồn giữa tất cả mọi sinh vật, phản ảnh sự hiểu biết về bản chất phụ thuộc lẫn nhau của mọi tồn tại. Điều này biểu đạt một cơ sở của “chủ nghĩa sinh vật bình đẳng” làm nền tảng đạo đức cho con người và soi sáng cho con người nhận thức và hành động thực tế đối với các hiện hữu có liên quan đối với con người như các loại sinh vật, động vật khác v.v..

Dưới đôi mắt tuệ giác của Phật, con người không khác gì hơn là hiện hữu của “Mười hai nhân duyên“. Sự vận hành của “Mười hai nhân duyên” là “Năm uẩn” của con người. Do đó thể nhận của sự vận hành ấy đồng nghĩa là thể nhận con người như thật.

Sắc uẩn là cơ thể vật lý. Thọ uẩn gồm cảm thọ khởi lên từ giao tiếp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và của ý. Tưởng uẩn gồm có tư tưởng về sắc, thanh, hương, vị và về thế giới hiện tượng. Hành uẩn là tất cả hành động về thân, khẩu, ý. Thức uẩn gồm nhân thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Con người là như vậy, là do các duyên thuộc thế giới vật lý và tâm lý. Mỗi cá nhân đều có liên quan đến cá nhân khác, đến xã hội, đến thiên nhiên và nhất thiết không hiện hữu tự thể. Do đó, đạo Phật có nói đến tính vô ngã, vô thường.

Trong hệ thống Năm uẩn, Thức uẩn (conscióuness) là tri giác – hiện hữu, không thể phân định Thức là ở quá khứ hay tương lai vì nó là “dòng vận hành bất tuyệt“. Trong lúc sinh thành thì được gọi là Kiết sinh thức. Khi mạng căn chấm dứt (sự chết), thân vật lý tan rã, Thức năng vẫn tồn tại, nó sẽ gọi là Nghiệp thức, có công năng dẫn đến sự tái sinh vì nó vô hình, không mang tính vật lý thì lấy gì mà biến đổi và mất đi. Tuy nhiên, Thức uẩn không thường tại, mà là hiện thân của tiến trình tương tục.

Một khía cạnh rối răm khác gặp phải khi định nghĩa Thức uẩn là tri giác – hiện hữu, chính là sự nhận thức được nhìn từ tổng tướng bởi ý thức phân biệt đối với một hiện hữu hàm chứa trong nó một tiến trình hiện hữu.

Những gì được phân tích, suy luận và tiếp nhận qua tri giác chỉ là chân lý thường nghiệm mang tính tương đối, chứ không phải là cảnh giới tự chứng của chư Phật hay là chân lý tuyệt đối. Từ những chi tiết trên, ta thấy con người là một sinh thể hữu hạn bởi sinh lão, bệnh tử.v.v..; vừa là vô hạn. Nó vô hạn từ sự định hướng đoạn trừ Ái dục, khi Ái, Thủ được đoạn diệt thì “Mười hai khoen xích nhân duyên” của thế giới sinh tử luân hồi tan ra.

“Do vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên lục nhập; lục nhập duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sinh; sinh duyên lão tử”.

Theo kiến giải của các luận sư Phật học, nếu chỉ nắm bắt cái khái niệm bên trên ở cấp độ bề mặt của Thức thì chúng ta sẽ không thấy được bản chất của chúng ở tầng sâu hơn, rộng lớn hơn trên nền tảng của Duyên khởi. Biểu hiện của Thức là thế giới sơn hà, đại địa, sum la vạn tượng, mà con người nhận biết, cụ thể là tất cả những hoạt động trong đời sống con người như: ngân hàng, siêu thị, giáo dục, y tế, các đoàn thể xã hội.v.v..

Mối quan hệ giữa con người và thế giới, cũng như chủ thể và khách thể tựa hồ như khi đứng nhìn đỉnh núi vào lúc chiều tà, ta đang mất hút trong nó và nó đang hiển thị, phô trần trong ta. Tính bất khả phân giữa chủ thể tri giác và đối tượng tri giác gọi là Duy thức hay “chỉ có thức biểu biệt“. Điều này nói rằng: không phải chỉ có tâm thức, mà không có thực tại khách quan. Do đó, Duy thức là biểu hiện, biểu biệt của tâm thức và nếu thiếu vắng tâm thức thì tất cả các đối tượng của nó, gọi là Pháp, đều không có mặt.

Theo học thuyết Duy thức, tầng cao nhất thuộc ý thức của con người được hình thành từ Tiền ngũ thức, tương ứng với năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân). Tiền ngũ thức chính là sự nhận thức của các cơ quan cảm giác như: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức.

Ý thức là thức thứ sáu bao gồm sự phân biệt, tổng hợp sự nhận thức của năm giác quan thành ảnh tượng mạch lạc.

Thức thứ bảy gọi là Mạt na thức, nó hoạt động như một trạm thu thập những hoạt động của sáu thức kia. Thức này phân biệt thế giới tinh thần bên trong. Sự nhận thức cơ bản về Ngã, khởi đầu từ cấp độ này. Sự chấp chặt về Ngã mà tạo nên ác nghiệp cũng từ đây. Những nghiệp này gồm Ngã si dẫn đến vô minh; Ngã mạn có thể tạo nên tính kiêu mạn; Ngã kiến thường là những kiến giải sai lầm và Ngã ái là gốc của sự tham lam. Tính khí của Mạt na thức trên nền tảng bốn phạm trù nghiệp nói trên đã mô tả bao quát toàn bộ đời sống nhu cầu sinh lý con người. Vì rằng sự khổ đau hay hạnh phúc của con người đều bắt nguồn từ sự chấp thủ cái tôi, cái của tôi và cái tự ngã của tôi.

Nói theo tâm lý hiện đại, thì hình thái của Mạt na thức chính là sự vận hành của tư duy hữu ngã theo sự điều động của ái dục thúc đẩy tâm lý tìm kiếm sự thoả mãn dục vọng, khoái lạc, là thứ hạnh phúc giả tạo và điên dại. Đây cũng là tập khí di truyền của đời sống tâm thức, nó cũng là “ý niệm tối sợ“ hay còn gọi là “kiết sinh thức” trong mỗi “chu kỳ đời sống mới” .

Trong Kinh Lăng Già có bài kệ viết:

Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sinh

(Thích Thanh Từ dịch)

Nằm trong tầng sâu hơn Mạt na thức là thức thứ tám, có tên A lại da thức hay còn gọi là Tàng thức. Đây là thức bất tử vì nó được xem là đi qua dòng sinh tử. Nó là thực thể căn bản thuộc sự chuyển sinh liên tục, vĩnh hằng của sinh mệnh. Tàng thức có các đặc tính:

+ Tất cả những kinh nghiệm của sinh mệnh do bảy thức trước phát khởi hay do những hoạt động thuộc thể chất hoặc tinh thần thông qua ba nghiệp gồm thân, khẩu, ý, được lưu giữ dưới dạng chủng tử trong Tàng thức. Những chủng này được bảo trì, phát triển và thành thục rồi cho ra đời một hiện hữu mới. Trước viễn cảnh của dòng sông tâm thức, mọi hiện tượng tâm lý sinh khởi hay mất đi đều nướng vào chủng tử có sẵn mà thuật ngữ gọi là “Chủng tử bản hữu” trong Tàng thức.

Trong sự giao tiếp với hiện tại của dòng tâm thức, chủng tử bản hữu có điều kiện vun trồng, tưới tẩm sẽ hiện hành và chủng tử mới được giao vào Tàng thức gọi là tân huân chủng tử. Sự tưới tẩm, xông ướp, chăm sóc thường xuyên thì chủng tử tân huân là tập khí. Chẳng hạn, niệm Phật lần đầu tiên là tân huân và cứ mỗi ngày đều niệm là huân tập và ý niệm về Phật đã thể hiện trong phong thái cuộc sống là tập khí.

Vì các chủng tử này được khái niệm hoá thông qua ngôn ngữ nên để lại sự ảnh hưởng rất sâu sắc. Nhìn từ góc độ của đạo đức thì có những chủng tử thiện, chủng tử ác và chủng tử vô ký (không thiện, không ác). Từ ý nghĩa này, dù thân nghiệp, ý nghiệp là thiện hay ác đều in dấu trong Tàng thức dưới dạng chủng tử nghiệp. Về mặt bản chất, Tàng thức là trung tính, như tờ giấy trắng và những chủng tử thiện và ác sẽ quyết định một điều kiện của nó trong thế giới tương lai.

Ba thể dạng, tân huân, huân tập và tập khí là một tiến trình của đời sống tâm thức. Nó biểu hiện cụ thể qua thói quen, phong cách hay cá tính tạo nên cái biệt nghiệp của mỗi cá nhân. Những hoạt động của thân và tâm của một người vốn mang tính cá nhân, do đó chúng được tác thành bởi biệt nghiệp. Trái lại, môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội chung cho tất cả mọi thành viên, vì thế chúng được hình thành bởi cộng nghiệp: sông, núi, trái đất v.v... được sinh ra từ cộng nghiệp và ngược lại các loài hữu tình được sinh ra từ biệt nghiệp.

Thuyết Duy thức của Pháp Tướng Tông cho rằng Như Lai Tạng hay Chân Tâm bị che lấp mới trở thành Tàng thức nên Tàng thức được ví như nền tảng của tâm thức, là đất để tâm phát triển, là thể của tâm.

Chính vì vậy, Tàng thức có những chức năng riêng để nhận thức. Sự nhận thức được thể hiện phản ảnh qua các hoạt động của thân, khẩu và ý, rồi chúng lại được in dấu vào Tàng thức bằng các chủng tử. Tiến trình này được định danh là “Duyên khởi của Tàng thức”. Vòng phản hồi biệt nghiệp của Tàng thức ở cá nhân sẽ được hình thành tại đây. Bồ Tát Thế Thân phát biểu rằng: A lại da thức, thường thay đổi và giống như một dòng nước lũ“ (Hằng chuyển như bộc lưu)

Kết quả được nhìn từ phía duyên khởi thì ba nghiệp thân, khẩu, ý biểu đạt chính nó một cách mới mẻ, nên Tàng thức luôn luôn thay đổi do sự tích chứa biệt nghiệp chủng tử mới như thế. Và rõ ràng, khi được chia sẽ với cộng đồng xã hội, với môi trường thiên nhiên thì các biệt nghiệp có thể trở thành cộng nghiệp.

+ Hiện thân của tập khí chính là con người toàn diện về hai mặt tâm lý và vật lý, tư duy và hành động, vật chất và tinh thần, tự tướng và tổng tướng, biệt nghiệp và cộng nghiệp, cá nhân và cộng đồng v.v... Tại nơi đây không thể tìm ra một hiện tượng mang tính cách hoặc riêng, hoặc chung. Trong cái riêng có cái chung và trong cái chung có cái riêng nghĩa là nó phơi bày ra lý duyên khởi và lý trung đạo.

“Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt
Khi cái này không có mặt thì cái kia không có mặt
Khi cái này sinh khởi thì cái kia sinh khởi
Khi cái này đoạn diệt thì cái kia đoạn diệt”

Như vậy, tập khí hay phong cách sống của một cá nhân cũng phản ánh một mặt nào đó cái phong cách sống của mọi người trong cùng một xã hội, một giai đoạn lịch sử: vì mỗi cá nhân là sản phẩm của chính mình, lại vừa là sản phẩm của cộng đồng xã hội mà cá nhân đó là một thành viên.

Trong quan điểm này, mối liên hệ giữa cá nhân với tâm thức, giữa cá nhân với xã hội, giữa con người với thiên nhiên, những mối quan hệ là những phương diện trong cách nhận thức thế giới của Phật giáo.

Khái niệm này cho thấy cộng nghiệp được lưu vào Tàng thức duy trì được những mối liên hệ sinh động với cộng đồng, với xã hội và môi trường thiên nhiên và chuyển đổi liên tục dẫn đến sự tích luỹ các cộng nghiệp mới để cuối cùng biểu lộ chính nó trở thành hiện tượng. Tóm lại, cả thế giới hiện thực khách quan với muôn vạn dị biệt đa thù, lẫn các hiện tượng tâm lý như buồn vui, giận hờn, yêu thương đều là các biểu hiện của Tàng thức.

Theo đạo Phật, con người trước hết là biểu hiện từ Tàng thức bao gồm các nhân duyên: địa, phong, thuỷ, hoả, không, thời, phương, thức và xuất hiện như một tổng thể của 5 uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bản chất của con người là một tích hợp của nhân duyên với dòng nghiệp thức, dòng nghiệp ở đây chính hạt giống, các tập khí, các tạo tác trong sâu thẳm của tâm thức và là nguyên uỷ cho vòng luân hồi sinh tử của một dòng sinh mệnh.

Môi trường sống là không gian cho sự cộng sinh của muôn loài bao gồm cả con người được điều phối nghiêm ngặt của nguyên lý Duyên khởi và tiến trình vòng phản hồi của cộng nghiệp trong Tàng thức.

Cho đến muôn thuở, nhân loại đã cải tạo biến đổi môi trường sống chỉ nhắm thẳng mục đích đáp ứng dục vọng của con người. Nói cách khác những gì thuộc bên trong con người như những dục vọng sẽ được biến hiện thành những thành tố bên ngoài môi trường sống và chính sản phẩm của dục vọng này lại trở thành đối tượng kích thích ngũ quan: sắc, thanh, hương, vị, và xúc giác con người. Từ ban đầu, cộng nghiệp như là một tổng thể có qui mô nhỏ, nhưng dần dà thông qua vòng phản hồi của Tàng thức, phóng đại tính cộng nghiệp theo biên độ rộng lớn trong cả cộng đồng nhân loại.

Thực ra, ta cần phân biệt giữa hai khái niệm dục vọng và khát vọng. Dục vọng về bản chất là một sức mạnh mù quáng nó như một sự thèm khát đầy dẩy dằn vặt tâm trí, bị điều động bởi lòng ích kỷ, nó chỉ nhằm thoả mãn những toan tính vô hạn của cuộc sống tầm thường. Dục vọng nhanh chóng biến chất để chuyển thành độc tố tham, sân, si của Tâm ngay khi nó trở nên gay gắt, ám ảnh hoặc chấp thủ không kiểm soát được. Trái lại, khát vọng nảy sinh từ tâm ý muốn biến mình thành người tốt, phụng sự cho phúc lạc con người, hoặc vươn tới giác ngộ tâm linh.

Sự chuyển hoá Tàng thức.

Như đã trình bày, Tàng thức dung chứa các hạt giống vừa ô nhiễm vừa thanh tịnh. Sự chuyển hoá có mục đích làm tan biến, diệt tận các hạt nhân ô nhiễm, bất thiện, trả lại bản tính thanh tịnh, chân thật của nó. Nói một cách cụ thể là giải trừ các hạt giống tạp niệm trôi lăn trong diễn biến tâm lý của chủ thể nhận thức.

Con người hiện hữu trong môi trường sống tương tác nhận thức của mình thông qua ngũ quan và được tổng hợp vào ý thức (thức thứ 6) và cũng được nhận thức bởi Tàng thức (thức thứ 8), Hầu hết các biểu hiện của chủng tử được in vào Tàng thức thông qua ngôn ngữ bằng các phương tiện như giáo dục, đối thoại, diễn thuyết, báo chí, triển lãm v.v... là các chủng tử nghiệp thiện. Các chủng này lại được lưu giữ thông qua vòng phản hồi của xã hội sẽ là cộng nghiệp tốt, tác dụng tốt trong tương lai.

Mặt khác, bằng phẩm hạnh nhẫn nhục, phát triển chánh niệm, chịu đựng khó khăn, thực hành thiểu dục với tinh thần tri túc, kiềm chế tham lam, không để tâm trí bị đầu độc, bị ám ảnh bởi những xa hoa phù phiếm của vật chất, bởi những tham đắm quyền thế. Sau cùng, quán về Tính không của vạn hữu để nuôi dưỡng ý thức về mối quan hệ Duyên khởi giữa tất cả dạng thức sống, để nhận ra sự cộng tồn giữa con người và sinh vật khác và từ đó con người trực nhận được sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh về mặt sinh mệnh nhưng vẫn dành cho con người một dạng sinh mệnh thông minh hơn có quyền ưu tiên.

Điều phải suy ngẩm

Dường như, ngày nào sự phát triển khoa học và kỹ thuật còn phát triển mạnh, bí mật của thiên nhiên không ngừng được khám phá, phơi bày trước mắt con người, thì nhân loại càng trở nên cuồng vọng hơn. Dưới ảnh hưởng tư tưởng duy vật luận của phương Tây, con người vẫn cho rằng vật chất quyết định ý thức, vật chất trở thành mục tiêu cao cả, ưu tiên cho cuộc sống, và vì thế con người dần dà bị vật chất hoá, không hay không biết tự lúc nào.

Con người vẫn mãi mê nhận thức rằng chỉ có điều kiện vật chất càng nhiều thì hạnh phúc càng ổn định và vì thế dưới mục tiêu chung của phát triển kinh tế thì lực lượng tiềm ẩn của con người đã được kích thích một cách mãnh liệt, trạng thái tâm lý thay đổi, chao đảo không ngừng và dường như ý nghĩa kiếp người chỉ được đo bằng con số trên tài sản của họ sau bao năm tháng bôn ba.

Xét từ quan điểm của Phật học, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của đời người là không khác nhau. Lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân cũng là một thể. Vì vậy tư tưởng tìm kiếm lợi ích trước mắt để làm giàu không nghỉ đến hành vi tức thời sẽ gây đến hậu quả đến mai sau là một điều quá tai hại cho cộng đồng xã hội và rộng hơn cho toàn thể nhân lại. Đây chính là vấn nạn của môi trường sinh thái và sâu xa hơn là vấn nạn của biến đổi khí hậu mà nhân loại đang đối mặt trong toàn cầu như hiện nay.

Quan niệm của Phật giáo về sinh mệnh con người trong vũ trụ xuất phát thông qua trực giác của Đức Phật sau khi ngồi thiền định dưới cội Bồ-đề và khám phá bản chất của vũ trụ, Ngài đã nhận ra rằng bản thân đời sống không thể tách rời nguồn gốc của sinh mệnh muôn loài và vũ trụ mà nó được hình thành trong đó Ngài đã đặt tên là sinh mệnh cơ bản hay còn gọi là Pháp (dhamma). Đức Phật đã thấy rõ sinh mệnh vũ trụ và tính bất nhị giữa Ngài và vũ trụ trong chiều sâu thẳm.

Theo các luận sư Phật học. Pháp không có hình dạng, nó là sinh mệnh trong sinh mệnh, thuật ngữ khác dùng thay cho Pháp gọi là Như Lai. Như Lai “là người đã đến như thế” danh hiệu chỉ một vị đã đến bậc giác ngộ cao nhất, bậc Chánh đẳng, Chánh giác, đôi khi có nghĩa là biểu hiện cụ thể của Chân như, thể tính của vũ trụ, được xem là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể. Như Lai trong nhiều trường hợp đồng nghĩa với trí huệ, với Không tánh.

Mọi thứ hiện hữu trong vũ trụ được kết nối bằng luật Duyên khởi, một nguyên lý của tính tương đối mang bản chất khoa học hiện đại. Tác dụng của sinh mệnh vũ trụ là thực hiện những hành động trong mạng lưới phức tạp của nhân quả. Quá trình vận hành của sự tiến hoá sinh mệnh và thế giới vật chất làm xuất hiện dạng sinh mệnh thông minh gọi là con người.

Trong Kinh Đại Thừa có dạy: Trong vũ trụ bao la rộng lớn này tồn tại những dạng sinh mệnh thông minh khác hoạt động xuyên suốt trong sự phát triển của nó, đó chính là khái niệm: “Quốc độ của Phật“ ở quá khứ, hiện tại và vị lai trong mười phương. Bởi vậy, con người phải nỗ lực thực hiện những hành động tương thích với nhận thức cao hơn của mình.

Nhìn trên qui mô địa cầu, hệ thống sinh thái, tiến hoá chọn lọc, phát triển theo cách sáng tạo và nhân loại là một thành viên trong cộng đồng này. Con người là vốn quý, là bậc linh trưởng của vạn vật vì có tâm thức có tự do chọn lựa, khác với động vật. Sung sướng, hạnh phúc, đau khổ và phiền muộn đều là các cảm giác lưu xuất từ tâm, cho nên phải có nhận thức sâu sắc về tác dụng của tâm linh, và chính tâm linh chứ không có nhân tố nào khác là cội nguồn ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự thay đổi của thế giới mà con người đang sống. Chính đời sống, xã hội, thế giới của con người, do con người muốn làm ra chứ không phải do một sự mặc khải nào cả.

SÁCH THAM KHẢO
1. Thích Chơn Thiện: Lý thuyết Nhân tính qua Kinh Tạng Pali - NXB Phương Đông 2009.
2. Tuệ Sỹ (dịch và chú) – Thành Duy Thức - NXB Phương Đông 2009.
3. Pháp Hiền – Triết học và khoa học Tây Phương - NXB Phương Đông 2010.

Đặng Công Hanh
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Ba, 29 tháng 8, 2017

Chu Trung




 Đất trời hoà một, trời là đất, đất là trời, không còn ranh giới giữa cõi Phật và nhân gian, chỉ có Chân Như trong sáng thôi.

         舟中                              Chu Trung

一葉扁舟湖海客     Nhất diệp biển chu hồ hải khách        
撐出葦行風     Sanh xuất vy hành phong thích thích             
微茫四顧晚潮生     Vi mang tứ cố vãn triều sinh
江水連天一鷗白     Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch       
          玄光禪師                 Huyền Quang Thiền Sư

Dịch Nghĩa: Trong Thuyền

Kẻ đang phiêu bạt biển hồ, ngồi trên con xuồng mong manh như chiếc lá
Chống xuồng qua đám lau, nghe tiếng gió buồn buồn rên rỉ
Bốn phía mịt mù, trong khi con nước buổi chiều đang lên
Giữa vùng trời và sông nước như liền nhau, xuất hiện một cánh chim hải âu trắng.

Diễn ý:

 Đây có phải là chiếc Thuyền không đáy của Tiếp Dẫn Tăng, và người khách là thầy trò Đường Tăng? Rời bến Lăng Vân, bỏ lại phía sau chốn mê, Tiếp Dẫn Tăng đưa thầy trò Đường Tăng sang đất Phật.

Dịch Thơ

      Kẻ phiêu bạt ngồi trên xuồng nhỏ
      Vượt ngàn lau trong gió thì thào
        Chiều mờ con nước dâng cao
Giữa trời đất quyện hiện màu trắng âu.
                               Quên Đi

***

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Bố Thí Vì Từ Mẫn



Bố thí mà không vụ lợi, bố thí mà không toan tính lợi về mình, bố thí vì từ mẫn, đây mới là bố thí chơn thật. Vì sao?

Khi chúng ta không vụ lợi, mà không toan tính lợi mình thì chúng ta không mong cầu một sự trả ơn của người được nhận bố thí, chính nhân duyên này làm tâm chúng ta an lạc, không phân vân, không đắn đ, đối tượng bố thí là bất kỳ ai, miễn sao người nhận được bố thí thấy an vui trong lòng. Ngược lại, người bố thí cũng hoan hỷ, cũng kính mến người bố thí. Do đó, ân oán không có xiềng xích nhau. Ngược lại, chúng ta bố thí vụ lợi, toan tính cho bản thân.

Bố thí vụ lợi, toan tính cho bản thân, chắc chắn loại bố thí này không sớm thì muộn đều có ân oán, vay trả nhau. Khi chúng ta bố thí mưu cầu ích lợi cho bản thân, tâm chúng ta bị chi phối tham, nhưng khi những lợi ích không đến thì sân sẽ chi phối, nhưng lợi có đến thì ân lại càng chồng chất ân, hay nói cách khác, tham càng tham thêm. Chúng ta không biết lợi và không lợi đều vô thường, biến hoại, chúng đều chứa khổ, đó là "vô minh". Từ đó, vay trả, trả vay cứ gặp nhau mãi mãi, triền miên mà chúng ta không hề biết đến.

Bố thì vì lòng từ là một trong những bố thí vượt lên trên tất cả bố thí. Chính bố thí vì tâm từ, quy luật nhân quả không tác động vào thân, tâm chúng ta, từ đó tâm an lạc, thanh thản. Đây là loại bố thí "trí tuệ", bố thí tâm từ làm cho muôn loài an lạc, trong đó có chính chúng ta. Tâm từ là một loại tâm đặc biệt của con người, mà các bậc thánh luôn khuyên dạy chúng ta rèn luyện, trau dồi, tâm từ là dòng nước mát lành, xóa tan ưu phiền, khổ não, sân hận, ân oán chính chúng ta, và cả người khác.

Bố thí vì tâm từ rất trí tuệ, không phải cả đống vật chất, cả khối kiến thức để chúng ta san sẻ cho người khác, mà đôi khi chỉ một miếng bánh mì cho đàn kiến, một bát cơm cho chú chó, con mèo đang đói, một cử chỉ ân cần cứu một con chim, con cá,...gặp hoạn nạn, hay chỉ 1 lời nói làm người khác "bừng tỉnh", để hướng về điều thiện, hay chỉ 1 hành vi mang đậm dấu ấn "lòng từ bi",...Đây là một trong những hình thức bố thí mang tính chất "trí tuệ" rất cao. Do đó, chúng ta phải tư duy để mình bố thí phù hợp với "lòng yêu thương" chơn chánh, hay từ bi.

Nói tóm lại, bố thí rất cao quý, nhưng bố thí không vụ lợi, không toan tính và bố thí vì tâm từ thì vô cùng cao quý. Hơn nữa, bố thí đúng chánh pháp là một tài sản to lớn của mỗi con người.

Kính ghi
Long Nguyen
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017

Quân Tử Và Tiểu Nhân



"Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.

Người khách này ngăn vị học trò kia lại hỏi: “Nghe nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái lạy ta.”

Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”

Người khách kia cãi lại: “Sai! Có ba mùa!”

Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói: “Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”

Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi: “Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”

Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”

Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.

Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”

Khổng Tử trả lời: “Con không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành. Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết thúc sao?” 

Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện ” (Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện.

Kẻ tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh”.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.

Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật. 

Phú Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện với kẻ tiểu nhân. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.

Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.” (Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy). 

Rõ ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo…’ 

Một lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu…

Kẻ tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết'.

Hàm ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởi thứ quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại, đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi với kẻ tiểu nhân?"

Lam Thư 
(daikynguyen.vn)
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Ngác Ngơ Xuân Mộng!




Ngẩn ngơ bởi mối tình bậu cửa!
Mĩm cười khi thoáng thấy em qua!
Viết cho ngày mai mầu nhiệm trải dài...
Trên vạn dặm tình yêu màu sữa!

Không lời khi bước nhẹ mà sâu
Viết lại trên hoa ..mối tình đầu!
Tóc tiên buộc với cành hoa nắng!
Trên tim ... lời tỏ chẳng thành câu!

Ba mươi năm lẻ...vết nương dâu
Ba mươi mùa xuân qua lại cầu...yy
Đời chiều cơn sóng lòng quên tuổi!
Thoáng bóng mùa hoa, nhớ mắt sâu!

Một năm lẻ nữa đi qua cửa!
Một mùa xuân nữa cắn hạt dưa!
Trên đầu cọng tóc già nhẩm tính...Một chút mới vừa... đời đã xưa! 

Xin ừa! Vâng ạ! ...Dạ thưa!
Trái vừa chín mọng, tình vừa oằn cây! 🍀🌸🌼🌸💕🍀
Hannghiem Nguyen

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

Trí Thức và Trí Tuệ



Thông thường người ta thường lẫn lộn giữa trí thức và trí huệ.

Những người có học thức, có bằng cấp thế gian thì ta gọi là trí thức. Người trí thức được xem là thông minh vì có sự hiểu biết rộng rãi. Khi đến với đạo Phật, họ có thể hiểu giáo lý nhanh chóng hơn người bình dân thất học, nhưng không phải vì vậy mà được xem là có trí huệ.

Những giáo sư Phật học ở các đại học là người biết nhiều về Phật giáo nhưng những điều họ nói và dạy không ăn nhằm gì đến cuộc sống của họ cả. Họ vẫn uống rượu, hút thuốc, chơi bời, hưởng thụ, tham dục, chìm đắm trong cuộc đời như bao nhiêu người không biết đạo. Do đó đối với đạo họ vẫn là người vô minh.

Có trí huệ là người thấy rõ nguyên nhân của khổ và biết tu tập, ly dục, tu tâm sửa tánh để thoát khỏi vòng chi phối của tham, sân, si.

Trí thức là cái biết đến từ bên ngoài nhờ thâu thập kiến thức, còn trí huệ là cái biết xuất phát từ bên trong nhờ sự tu tập, thực hành được những điều mình biết và nó có công năng giải thoát.

Thí dụ ta biết đời là khổ, vô thường, vô ngã, nhưng ta vẫn bám víu vào cuộc đời, bám víu vào của cải vật chất, danh vọng và khổ đau vì chúng, như vậy cái biết này tuy có mùi đạo nhưng vẫn còn thuộc về trí thức chứ chưa phải là trí huệ.

Chỉ khi nào cái biết (về đạo lý) khiến ta thực sự xả bỏ mọi bám víu, ham muốn, ưa ghét, giận hờn thì đó mới là trí huệ.

Thích Trí Siêu
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

Người Phật Tử



Người Phật tử chân chính không nên thân cận, cung kính, cúng dường cho Sa-môn không có đạo hạnh, truyền bá mê tín mượn đạo tạo đời. Trong kinh Đại bát Niết-bàn I, phẩm Tứ y Phật dạy rất rõ ràng về phép lễ kính chư Tăng: “Này Ca Diếp! Trong chư Tăng, có chân thật Tăng, có giả danh Tăng, có trì giới Tăng, có phá giới Tăng. Trong Đại chúng ấy, phải bình đẳng cúng dường, cung kính, lễ bái. Vì với mắt thịt, hàng cư sĩ không thể phân biệt được vị nào trì giới, vị nào phá giới, ai là chân thật Tăng, ai là giả danh Tăng... Này Ca Diếp! Nếu đã biết rõ đó là Tỳ-kheo phá giới, thời chẳng nên cung kính cúng dường. Nếu trong chư Tăng có người phá giới, chẳng nên vì đắp ca-sa mà cung kính lễ bái”.

Trong giới luật nói: “Nếu có Tỳ-kheo phạm tội Du-lan-giá, thời không nên thân cận. Những gì gọi là tội Du-lan-giá? Có Tỳ-kheo thấy cọng chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy, là mắc tội Du-lan-giá. Nếu vì tâm tham mà phá hoại tháp Phật thời phạm tội Du-lan-giá. Phật tử vì muốn tu bổ cúng dường xá-lợi v.v…, mới mang châu báu tiền bạc gởi các Tỳ-kheo. Tỳ-kheo nhận rồi, bèn tự ý thọ dụng, đây là hạng bất tịnh, sinh nhiều đấu tranh. Cư sĩ tốt, không nên gần gũi cúng dường”, là lời Phật nói.

Nếu nói: “Nếu có Tỳ-kheo vì cầu lợi, rồi làm nhiều cách dua nịnh dối trá, tuy giữ đúng oai nghi, ở riêng nơi yên vắng nhưng chỉ với mục đích cầu lợi, khiến người đời tưởng mình là bậc tốt nhất đã chứng quả thánh, là bậc phước điền lớn. Tỳ-kheo này nhiều ngu si. Nếu có Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào làm như vậy thì mắc tội đại vọng ngữ…”, là lời Phật nói. 

Tăng bảo chân chính là người kế thừa và thay thế Phật Tổ truyền dạy chánh pháp sống đời đạo đức, chuyển hóa tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi cho mọi người, là bậc mô phạm giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán, vì thế mới gọi là Tăng bảo chân chính. Đó cũng là lý do để mọi người phải thân cận, tôn kính và cúng dường.

Gọi là Tăng bảo, thì không thể chỉ có danh suông mà phải có chất lượng về tu học và dấn thân đóng góp với tinh thần vô ngã, vị tha. Nếu chỉ có danh mà không chất thì không phải là “Tăng bảo chân chính” mà là “ ma Tăng thời mạt pháp mượn đạo tạo đời”. Ở đây, Phật dạy phải thân cận, cung kính, cúng dường Tăng bảo chân chính.

Trong kinh Tâm địa quán báo tứ ân, Phật phân Tăng bảo thành ba hạng người như sau:

1-Bồ-tát Tăng, như Văn Thù Sư Lợi và Di Lặc…

2-Thanh văn Tăng, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…

3-Phàm phu Tăng, là những vị đã giữ giới pháp chân chính, có đầy đủ chánh kiến, hay vì người khác diễn nói giảng dạy Phật pháp, tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, luôn làm lợi lạc cho mọi người, gọi là phàm phu Tăng chân thật tu hành.

Ba hạng trên gọi là Chân thật phúc điền Tăng.

Như vậy tiêu chuẩn thấp nhất mà Tăng bảo chân chính cần có để mọi người có thể y đó thân cận, cung kính, cúng dường là phải có giới luật, có chánh kiến, thường giảng dạy tin sâu nhân quả và dấn thân đóng góp giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nếu có lỗi thì phải biết ăn năn sám hối và cố gắng sửa sai. Ngoài những vị Sa Môn như thế thì không nên thân cận và cúng dường.

Một chàng nghệ nhân rất nổi tiếng vì tài năng của mình nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ khó chịu vì muốn tạc một pho tượng Phật và một pho tượng ma, thực tế thì anh chưa tìm ra hình mẫu lý tưởng nào cho phù hợp với ước muốn của mình. Trong lúc anh đang suy tư, tìm tòi thì một người bạn rủ anh đi chùa lễ Phật. Anh ta hỏi “Phật ở đâu?” Người bạn nói “đi thì biết”. Đó thật là một cơ hội ngẫu nhiên, anh ta cùng bạn đến chùa lễ Phật và được vị trụ trì tiếp đãi với phong cách trang nghiêm, điềm đạm và tự tại nên hấp dẫn anh rất nhiều.

Lần đầu tiên được gặp vị sư nên anh hoan hỷ phát tâm cúng dường một số tiền lớn với điều kiện ngài phải làm mẫu cho anh tạc tượng. Bức tượng được làm xong chỉ trong thời gian ngắn, ai ai nhìn qua cũng trầm trồ khen ngợi vì phong thái trang nghiêm, trong sáng lạ thường. Mọi người nhìn thấy đều quỳ xuống đảnh lễ với tâm cung kính hết sức chân thành. Từ đó về sau không ai còn gọi anh ta là nghệ nhân nữa mà gọi anh ta là bậc Thánh tượng.

Tiếp theo đó anh lại chuẩn bị công trình tạc tượng ma nhưng hình dáng ma quỷ ở đâu để anh tạc đây, đó cũng là vấn đề rất nan giải. Phải mất một thời gian dài để anh tìm được người hung dữ nhất nhưng không ai có ngoại hình vừa ý anh. Cuối cùng, anh cũng tìm được một người như ý nhưng họ đang ở trong tù vì tội giết người nên đang chờ án tử hình. Anh rất phấn khởi vì tìm được một người như thế thật đâu phải dễ, nhưng khi đối diện với tên tử tù và chuẩn bị tạc tượng thì anh ta bỗng khóc rống lên như đưa tang mẹ.

Anh nghệ nhân ngạc nhiên hỏi, “bộ ông sợ chết hả?” “Bộ nhà ngươi không còn nhớ ta hay sao, cách nay hơn một năm anh tạc tượng Phật đã lấy ta làm mẫu, giờ tạc tượng ma anh cũng lấy ta làm mẫu, sao lại oan gia trái chủ như thế này, tại sao ngươi lại biến ta từ Phật thành ma như vậy? Anh nghệ nhân nói, “sao có chuyện lạ kỳ như vậy chỉ trong một thời gian ngắn. Tôi khi trước tạc tượng Phật lấy hình dáng Ngài làm chuẩn với phong thái siêu phàm thoát tục, còn Ngài bây giờ hãy xem lại hình dáng của mình đi, thật đáng giống với ma với quỷ” “Ông không biết đó sao, vì trước kia ông cúng cho ta một số tiền quá lớn nên ta không kiềm chế được bản thân, do đó vui chơi trác táng rơi vào nghiện ngập và cuối cùng tiền hết tật mang. Ta vì không chịu nỗi cơn nghiện hoành hành nên túng thế đi cướp giật của người khác và phạm tội cướp của giết người, giờ phải chịu bản án tử hình chờ ngày xử trảm. Giờ đây ta vì buồn rầu, lo sợ, tiếc nuối thân mạng nên không ăn, không ngủ được mà ra nông nỗi này”.

Anh nghệ nhân nghe lời trình bày thống thiết đó cảm thấy xúc động nghẹn ngào, không ngờ bản tính con người thay đổi quá nhanh, vì chút đam mê dục vọng thấp hèn mà thân tàn ma dại như thế này. Anh ta mắt thấy tai nghe sự thật quá phủ phàng nên không còn tâm huyết nào làm việc nữa nên quyết định từ bỏ nghề này, do đó bức tượng ma quỷ đành dang dở không thành.

Chính vì vậy, cho đến ngày hôm nay không ai biết chính xác về tướng trạng của ma quỷ như thế nào, chỉ biết rằng nếu tâm tư suy nghĩ xấu ác và hành động vô lương tâm luôn làm hại người, hại vật, làm khổ đau cho thiên hạ thì ma quỷ hiện tiền; ngược lại nếu tâm trong sáng, thanh tịnh không chút bợn nhơ, hay làm việc thánh thiện giúp người, cứu vật thì Phật hiện tiền.

Phật hay ma cũng từ tâm niệm tốt xấu của chính mình tạo ra. Vị sư ở câu chuyện trên trước kia nhờ nương thầy lành bạn tốt nên có nhân duyên xuất gia tu hành thanh tịnh, do đó phát ra tướng tốt giống Phật nhưng vì ỷ lại mình đã thành tựu đạo Pháp mà mặc tình ăn chơi dong ruỗi, lấy phòng trà tửu điếm làm bạn để rồi bị dòng đời cuốn trôi và cuối cùng phải chịu thân tàn ma dại chờ ngày xử án. Tâm Phật hay ma chỉ trong một niệm, nếu ta huân tập tâm ma thì hiện hình ma, nếu ta biết gieo trồng hạt giống Phật thì Phật có mặt. Tâm Phật hay ma là do chính mình tạo lấy, không có một đấng quyền năng hay một phép lạ nào làm cho ta thành Phật hay thành ma.

Thích Đạt Ma Phổ Giác
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

Những lời Giáo huấn của Sư Viên Minh



...Con thân mến,..những điều con băn khoăn về ý nghĩa của cuộc sống là vấn đề lớn của con người: "Ta có quyền tự do hành động hay chỉ là hành động theo một định mệnh đã an bài? Phải chăng thuận thiên lập mệnh là an phận để trả quả của nghiệp, hay phản kháng lại số mệnh cũng vẫn là nghiệp dĩ? Làm thế nào vượt lên và đâu là giải thoát?"

Ðịnh mệnh và tự do là một cặp mâu thuẫn khi ta chưa thấy rõ sự thật và khi vô minh dục vọng còn phân chia chúng thành hai đối cực phải loại trừ một, đó chính là nhị nguyên, cái mà Ðức Phật gọi là: "Chẻ cái đầu ra làm hai" (Muddham vipàtayam) tức là khởi trí phân biệt ưa - ghét, lấy - bỏ v.v... làm cho trí tuệ bị phân hóa.

Tất cả các pháp đều có đối cực, những đối cực ấy có thể sinh, khắc, hoán vị và biến đổi trong sự tương giao trùng trùng duyên khởi. Vì vậy lấy cái này bỏ cái kia là phân biệt, là nhị nguyên. Cầm lên một chiếc mề đay chúng ta chọn mặt đẹp, bỏ mặt xấu, nhưng thật ra khi lấy ta phải lấy cả hai và khi bỏ cũng phải bỏ cả hai. Cũng như khi chúng ta mong muốn được ổn định, an toàn, hạnh phúc chúng ta vô tình mời gọi cả xáo trộn, bất an và đau khổ.

Ðịnh mệnh phải chăng là đối nghịch với tự do? Và hành động theo ý muốn là đồng nghĩa với tự do? nhìn kỹ ta thấy lắm lúc ngược lại. Người hành động chiều theo ý muốn của mình thật ra đã bị ràng buộc trong chính ý muốn ấy, nên họ đã mất tự do ngay từ khởi điểm. Trái lại người từ bỏ tư dục và thuận theo sự sống chân thực, nghĩa là sống đúng quy luật tất nhiên của sự sống (thuận thiên) hay thuận pháp người ấy lại được hoàn toàn tự do.

Nếu định mệnh hiểu theo nghĩa một khuôn phép do ai đó áp đặt theo tư ý của họ, thì đó chính là nghịch thiên hay phi pháp (trái với quy luật tự nhiên), định mệnh ấy tự nó sẽ bị đào thải.

Nhưng nếu định mệnh được hiểu như là quy luật tất yếu và tự nhiên của sự sống thì thuận thiên hay thuận pháp chính là hành động của trí tuệ, vì không có những quy luật tất yếu đó hoặc chống lại quy luật thì sự sống liền trở nên bất an, xáo trộn và đau khổ.

Nhờ vận hành theo quy luật mà sự sống vốn rất trật tự, an toàn và hạnh phúc. Thấy và sống đúng quy luật ấy thì không thể nào có xáo trộn, bất an và đau khổ được.

Vì không thấy và không sống đúng quy luật đích thực của sự sống nên chúng ta mới khởi tạo vọng nghiệp, bản ngã, luân hồi và đau khổ. Ðói thì ăn là quy luật của sự sống, nhưng tham ăn, giành ăn là vọng nghiệp và tất nhiên phải đưa đến kết quả bịnh khổ. Bởi vậy y học mới có nguyên tắc "thống tắc bất thông, thông tắc bất thống". Thông tức là thuận quy luật vậy.

Khi con người muốn thoát khỏi quy luật vì một ý muốn tự do nào đó thì vọng nghiệp bắt đầu và đó là khởi điểm của sự trói buộc. Cũng vậy, khi người ta tự đặt ra một chân lý lý tưởng rồi buộc mình vào nỗ lực hành động để đạt đến lý tưởng đó, thì vô tình người ta bắt đầu những bước đi ra khỏi chân lý thực tại và dấn thân vào cõi luân hồi sinh tử. Cuộc phiêu lưu mạo hiểm này được thực hiện bằng cái gọi là ý chí tự do của vọng nghiệp, thế rồi khi bị chính nghiệp ấy trói buộc người ta cho rằng có một định mệnh áp đặt lên đời sống tự do của họ, và họ muốn thoát ra.

Nhưng ngay khi chúng ta nóng lòng muốn thoát ra khỏi số mệnh ấy là chúng ta muốn tắt lửa mà lại thêm dầu, vì ý muốn giải thoát này là tự thân của sự bất an, người ta nói ma cao nhất trượng chính vì sự biến hóa muôn mặt của vô minh ái dục. Bất an là nó, muốn thoát khỏi bất an cũng chính là nó.

Con người tự dựng lên một bản ngã để thực hiện ước vọng của vô minh, ái dục, thế rồi cũng chính bản ngã ấy nhận lấy hậu quả mà nó tạo ra. Bây giờ khi kết quả không như ý muốn, bản ngã đòi giải thoát ra khỏi tình trạng này và ngay khi đó tạo ra nhân khác và cứ thế chồng chất thêm những trói buộc mà nó muốn thoát khỏi.

Bản ngã muốn giải thoát, nhưng đó là giải thoát của bản ngã hay giải thoát chính bản ngã? Giải thoát của bản ngã là giải thoát ra khỏi cái mà bản ngã không thích để mong đạt đến cái sở thích, còn cái nó đang thích thì chẳng bao giờ nó muốn giải thoát cả. Nhưng khi giữ lại cái ưa thích, bản ngã quên rằng chính cái nó thích tạo ra cái nó không thích, nghĩa là trên thực tế bản ngã chỉ có thể chạy qua chạy lại trong sợi dây ràng buộc của chính mình chứ chẳng bao giờ có sự giải thoát thật sự, bởi vì bản ngã chính là trói buộc!

Bản ngã phát sinh cùng một lúc với số mệnh, bản ngã chính là số mệnh. Bản ngã muốn thoát ra khỏi số mệnh là một nghịch lý, trừ phi bản ngã tự hủy diệt mình. Nhưng khổ thay chẳng bao giờ bản ngã có thể làm được điều đó, cũng như nó chẳng bao giờ có được tự do. Nó càng được tự do, nó càng bị ràng buộc!

Có một anh sinh viên khi sống ở Việt Nam thì muốn mau chóng rời khỏi Việt Nam để qua Mỹ, nhưng khi qua Mỹ anh lại nói rằng bây giờ anh không được thanh thản như lúc còn ở Việt Nam, đời sống ở Mỹ luôn luôn chạy đua với thời gian, mà để đuổi kịp thời gian thì phải khẩn trương, không làm thế nào thanh thản được. Nhưng anh không biết rằng chính ý muốn được thanh thản đã làm cho anh mất hết thanh thản.

Thanh thản không phải là nhàn hạ nên không đối nghịch với khẩn trương, cũng không phải là phóng túng nên không phản lại nề nếp sinh hoạt có kỷ cương nhất định.

Chính sự lựa chọn của bản ngã giữa phóng túng và kỷ cương, giữa thanh nhàn và bận rộn, giữa khổ cực và sung sướng, giữa tự do và ràng buộc v.v... đã tạo ra mâu thuẫn, đấu tranh, phân vân, căng thẳng và dĩ nhiên thanh thản phải biến mất.

Thanh thản thật sự là có thể thanh thản cả trong ràng buộc lẫn tự do, trong thong thả hoặc cấp bách, trong lúc vui cùng khi khó, vì thanh thản đích thực thì vượt ngoài điều kiện.

Con thân mến,..Tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác là con đường giác ngộ. Ðạo Phật thường nói đến con đường như: con đường thanh tịnh, con đường chơn chánh, con đường giác ngộ, con đường giải thoát v.v... và vì vậy Ðạo Phật thường bị hiểu lầm.

Nói đến con đường người ta nghĩ ngay đến chỗ khởi điểm, chỗ chung cùng, nơi đi, nơi đến, cái lấy, cái bỏ... Như đi từ tướng đến tánh; từ sinh tử đến Niết-bàn; từ vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh đến thường, lạc, ngã, tịnh v.v... và họ tưởng tượng ra một con đường thật bình yên dẫn đến "Miền đất hứa", thế là người ta hy vọng từ bỏ được cảnh khổ này và hướng cầu đến một tương lai đầy lạc phúc. Ðó thật ra vẫn là một thứ vô minh ái dục lớn nhất trong các vô minh ái dục.

Ðức Phật chẳng bao giờ nói đến một con đường đi đến Niết-bàn. Niết-bàn không phải là một nơi chốn nên không có khoảng cách để đi đến. Bát thánh đạo, tứ niệm xứ, thất giác chi v.v... không phải là con đường chiếm một thời gian, không gian nào đó để dẫn đến Niết-bàn. Mặt khác, Niết-bàn không phải là một sự thành tựu hay một kết quả rốt ráo do điều kiện hội đủ một số pháp môn tu tập. Ðạo đế được mô tả là con đường chấm dứt nguyên nhân đau khổ (Dukkha samudaya nirodhamagga). Nguyên nhân đau khổ là vô minh ái dục, khi vô minh ái dục (tham, sân, si) chấm dứt thì bản ngã chấm dứt và toàn bộ khổ uẩn cùng với luân hồi, sinh tử, sầu - bi - khổ - ưu - não đều chấm dứt. Chấm dứt là Niết-bàn vì vậy được gọi là diệt đế (Nirodha sacca).

Bản ngã rất sợ sự chấm dứt, sự diệt tận, sự đoạn trừ, sự xả ly này cho nên nó vội vàng tô điểm cho Niết-bàn những ý niệm thường hằng, vĩnh cửu, cực lạc, chơn ngã v.v... Nhưng tất cả ý niệm đó đều là sản phẩm của vô minh ái dục.

Có thể chứng ngộ Niết-bàn (Nibbàna Sacchikiriyà) chứ không thể đi đến Niết - bàn, vì Niết-bàn không có đến và đi. Nhưng khi tham, sân, si chấm dứt thì sự sống cũng được mở bày, Niết-bàn không phải là cái gì xa lạ, để ta phải hướng vọng về phía trước, mà chính là ở ngay nơi chỗ hồi đầu.

Ðức Phật dạy: "Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ đến Niết-bàn là của ta, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng dục hỷ là căn bản của khổ đau, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài hữu tình. Do vậy ta nói Như Lai với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái đã chơn chánh giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Gíác".

Con đường là con đường giác ngộ giải thoát, là chấm dứt mọi nguyên nhân đau khổ, con đường ấy được Ðức Phật giới thiệu với 37 đạo phẩm. Tất cả các pháp môn phương tiện vận dụng về sau đều phát xuất từ đó, có thể tóm lại trong giới, định, tuệ hay tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Nói cho dễ hiểu là sáng suốt, định tĩnh, trong lành nơi chính thực tại hiện tiền (Sanditthiko dhammo) tức là tỉnh thức nơi chính sự sống đang là. Ngay khi đó bản ngã với toàn bộ sự lăng xăng của nó đều chấm dứt: Niết-bàn.

Con thân mến,..Ðừng nói đến an phận hay phản kháng, hãy im lặng lắng nghe hay chú tâm nhìn thẳng vào sự sống đang là, đó mới chính là: tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Ðói bụng hãy im lặng tỉnh giác đi nấu cơm, đừng quan tâm đến số mệnh hay tự do, việc đó hãy nhường lại cho các triết gia, các nhà tư tưởng và những người suy tư mơ mộng...

Namo Buddhaya.

(Trích Thư Thầy Trò.HT.Viên Minh)
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Tư, 28 tháng 6, 2017

Lương Thiện Không Cần Thông Qua Sát Hạch - Cuộc Hội Ngộ Đổi Đời Của Cậu Bé Đánh Giày Và Đạo Diển



Đạo diễn Walter đang lên kế hoạch cho một bộ phim mới của mình. Khi đang trong quá trình lựa chọn diễn viên, ông đã xem qua rất nhiều sinh viên trong trường nghệ thuật nhưng đều không có ai vừa ý.

Vào một ngày, ông Walter phải đi công tác ở ngoại thành, trong lúc ông đứng đợi ở ga tàu thì nhìn thấy một cậu bé đánh giày chừng hơn 10 tuổi…

Cậu bé hỏi: “Ông có muốn đánh giày không?”

Ông Walter cúi đầu nhìn đôi giày mới đánh xong, bèn lắc đầu. 

Khi ông Walter bước đi được mấy bước, thì đột nhiên nhìn thấy cậu bé mặt đỏ bừng chạy đến phía trước, cậu bé nhìn ông với đôi mắt khẩn cầu: “Thưa ông, cả ngày hôm nay tôi không có gì vào bụng, ông có thể cho tôi vay ít tiền được không? Từ mai tôi sẽ cố gắng đánh giày, đảm bảo sau một tuần là có thể trả lại tiền cho ông!”

Ông Walter nhìn cậu bé đứng trước mặt với bộ dạng đói khát, quần áo tả tơi, trong tâm có chút thương cảm, ông liền móc túi đưa cho cậu mấy đồng. Cậu bé rất cảm kích, nói: “Cảm ơn ông”, sau đó liền rời đi.

Ông Walter lắc lắc đầu, những đứa trẻ lừa gạt trên đường như thế này, ông đã gặp quá nhiều rồi.

Nửa tháng sau, ông Walter đã hoàn toàn quên chuyện cậu bé đánh giày vay tiền mình.

Trong một lần ông Walter đi qua nhà ga, bỗng nhìn thấy một bóng dáng gầy gò, từ xa đã vẫy tay gọi: “Ông ơi, hãy đợi một chút”.

Đến khi cậu bé mặt mũi ướt đầy mồ hôi chạy đến đưa tiền trả lại thì ông mới nhận ra là cậu bé đánh giày lần trước.

Cậu bé vừa thở hổn hển vừa nói: “Tôi đã ở đây đợi ông rất lâu rồi, hôm nay mới gặp được ông để trả lại tiền.”

Ông Walter, nhìn những đồng xu vẫn còn ướt do mồ hôi trên tay, trong lòng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ông nhìn lại cậu bé một lần nữa, chợt phát hiện thấy cậu chính là người mà ông luôn muốn tìm cho vai diễn mới.

Ông Walter đút mấy đồng tiền xu vào túi cậu bé, và nói: “Số tiền này là tôi cho cậu, cậu không cần phải trả lại.” Ông nói tiếp: “Ngày mai cậu hãy đến phòng đạo diễn của công ty điện ảnh ở trung tâm thành phố gặp tôi, tôi sẽ có một bất ngờ lớn cho cậu.”

Sáng sớm ngày hôm sau, bảo vệ của công ty đã nói với ông Walter rằng, có một nhóm trẻ con đường phố đã đến.

Ông Walter kinh ngạc đi ra ngoài cửa, liền nhìn thấy cậu bé đánh giày chạy đến, vội nói với ông với vẻ mặt ngây thơ: “Thưa ông, những đứa trẻ lang thang này đều giống tôi, đều không có bố mẹ, chúng cũng muốn có những điều bất ngờ!”

Ông Walter hoàn toàn không thể nghĩ tới, một cậu bé lang thang bần cùng, nhưng lại có một trái tim rất lương thiện.

Ông Walter quan sát và chọn lọc rất kỹ lưỡng, và phát hiện quả thực có một vài cậu bé rất lanh lợi, phù hợp hơn với vai diễn. Nhưng cuối cùng, ông chỉ giữ lại cậu bé đánh giầy, đồng thời trong hợp đồng tuyển dụng, ông đã viết tại mục miễn thử việc là: “Lương thiện không cần thông qua sát hạch.”

Ông Walter nói, cậu bé rất lương thiện, tuy bản thân cậu vẫn phải đối diện với hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn vô tư mang hy vọng và cơ hội của mình chia sẻ cho người khác. Mà diễn viên trong bộ phim chính là một người lương thiện tốt bụng như thế.


Cậu bé đánh giày tên làVinícius de Oliveira. Dưới bàn tay của đạo diễn Walter, anh Vinícius de Oliveira đã rất thành công trong vai diễn của mình. Bộ phim này mang tên “Central do Brasil”, có nhiều tình tiết cảm động, đã giành được giải thưởng Gấu vàng tại Liên hoan phim quốc tế Berlin, Quả cầu vàng, và được đề cử giải Oscar cho bộ phim ngoại ngữ hay nhất…

Nhiều năm sau, anh Vinícius de Oliveira đã trở thành chủ tịch của một công ty Văn hóa Điện ảnh, anh đã viết cuốn tự truyện “Cuộc đời diễn viên của tôi”.

Trên bìa cuốn sách có dòng chữ mà chính đạo diễn Walter từng viết: “Lương thiện không cần qua sát hạch.” Và ở dưới là đánh giá của ông đối với anh Vinícius de Oliveira: “Là sự thương thiện, đã từng đem cơ hội của anh ta trao cho người khác. Cũng chính là sự lương thiện, đã khiến cơ hội của cuộc đời không bỏ qua anh ta!”

Nguồn Đại Kỹ Nguyên
Quang Lê sưu tầm

Thứ Sáu, 23 tháng 6, 2017

Bản Ngã



Ai ơi trong cõi nhân sinh
Làm sao đồng thuận để mình...tha nhân
Không gây nhầm hiểu đôi lần
Bởi nhiều câu chuyện phân trần được đâu

Rồi từ chuyện nhỏ khởi đầu
Biến ra muôn chuyện mà đau... xót lòng
Chuyện đơn giản, hóa bòng bong
Đẩy đưa nhân thế vào vòng thị phi

Ai ai cũng muốn, cũng vì
Đề cao bản ngã... thành trì của ta
Dẫn đến tình nghĩa chia xa
Mỗi người mỗi nẻo... bất hòa với nhau

Bể đời muôn sắc muôn màu
Muôn điều cám dỗ dẫn vào tiếc thương
Đến khi về phía cuối đường
Giật mình tỉnh ngộ vô phương cứu cầu

Ai người tỉnh giác từ đầu
Diệt được bản ngã ngõ hầu lạc an
Sống đời hoan hỷ nhẹ nhàng
Hiện tại giải thoát không màng đâu xa...

Thích Nhật Từ
Sưu Tầm: Hanh Nghiêm

Chủ Nhật, 18 tháng 6, 2017

Những Câu Hỏi Cần Thiết



Hằng ngày, chúng ta có cảm giác mình luôn đối đầu với một núi công việc và lắm khi loay hoay chẳng biết mình nên bắt đầu từ đâu. Việc gì cũng thấy cần thiết và không biết chuyện nào nên ‘nhường quyền ưu tiên’ cho việc nào và bằng cách nào có thể hoàn thành công việc trong ngày một cách hiệu quả nhất. Do vậy, quản lý thời gian, sắp xếp và bố trí công việc hợp lý là cả một nghệ thuật và chính điều này góp phần đáng kể làm cho thành quả công việc ở mỗi người.

Những câu hỏi sau đây sẽ giúp chúng ta xác định việc mình muốn làm để rồi khối công việc vơi dần một cách nhẹ nhàng trong niềm vui qua cách bố trí khôn ngoan của mình.

Điều đầu tiên một người cần trả lời trước khi bắt tay vào công việc là hãy tìm câu giải đáp cho câu hỏi “mình đang quan tâm đến chuyện gì trong số các công việc được liệt kê trong danh sách ‘việc cần làm’ của ngày hôm nay?” hoặc câu hỏi “bây giờ tâm mình ở đâu trong số các công việc này?” 

Hãy bắt đầu một ngày bằng công việc mình quan tâm nhất. Khi hỏi câu này, tự nhiên tâm ta có một khoảng trống để tự nó lên tiếng và lắng nghe. Khi chúng ta mải mê cuốn công việc vào một khối thì thường chúng ta không nghe hết tiếng nói của tâm tư. Một việc làm thuận theo tiếng nói của lòng mình sẽ tiết kiệm thời gian, chất lượng và hiệu quả gấp nhiều lần hơn so với việc cứ bắt nó phải làm như một cỗ máy. Thông thường công việc mình quan tâm nhất chính là việc quan trọng nhất trong ngày nên một cách tự nhiên như một quán tính, khi viết ra các công việc cần làm trong ngày, bao giờ chúng ta cũng viết theo thứ tự ưu tiên.

Câu hỏi thứ hai, chúng ta tự kiểm tra, xem “đây thật sự có phải là việc mình thích làm hay không?” Tất nhiên không phải tất cả những việc cần làm đều là những việc mình thích, nhưng chúng ta có cách để thích việc mình cần làm, không thời điểm này thì vào thời điểm khác. Đối với vài việc trong ngày cầm đảm bảo thời gian tính, tức là cần phải hoàn thành ngay mà không thể trì hoãn, ta ưu tiên làm trước. Những việc khác, hãy chọn việc mình thích làm trước. 

Khi chọn việc mình thích, chúng ta sẽ làm thoải mái, làm mà như chơi và càng có niềm say mê trong công việc nhiều hơn. Niềm say mê và phấn khích này có một năng lượng chuyển hóa thái độ rất lớn. Do đó, thường là sau khi hoàn thành một việc mình thích, danh sách những điều thích làm trong số các công việc cần làm tăng thêm lên và thay vào đó, những công việc không thích ít dần lại và đến cuối ngày, tất cả những việc không thích đều tự động di chuyển vị trí sang cùng nhóm với công việc ưa thích. Đây là một nghệ thuật không quá khó, ai cũng có thể thử và người nào cũng có khả năng thành công với cách này.

Câu hỏi thứ ba chúng ta cần đặt ra và tìm câu trả lời là “chúng ta cảm thấy thế nào khi đang làm một công việc này?” Hãy quan sát cảm xúc của mình khi đang thực hiện một công việc. Chỉ biết đến công việc và nôn nóng hoàn thành nó mà không quan tâm gì đến trạng thái tâm lý của mình là một sai lầm hơn là thiếu sót. Nếu việc gì đó không tạo cho mình niềm vui, có thể chúng ta đã sai chỗ nào đây rồi. Vì sao? Làm là cả một quá trình tốn nhiều thời gian hơn là nhận lấy thành quả. Kết quả là điều tất nhiên, sẽ có ngay lập tức khi công đoạn làm này hoàn tất. Một khi đạt được mục đích, việc ấy coi như đã xong. Thời gian dành cho việc này chỉ chớp nhoáng, chỉ có thời gian thực hiện là dài. Do đó, chúng ta cần có niềm vui trong suốt cuộc hành trình thực hiện này. Ví dụ leo đến đỉnh núi là cái đích, nhưng người leo núi cảm nhận nhiều niềm vui và kinh nghiệm sâu sắc trong suốt chặng đường từ chân núi lên đến đỉnh hơn là khi lên đến đỉnh. Hoa thơm cỏ lạ, gió mát trời thanh trải dài trong từng bước chân từ nơi ta bắt đầu lên tận đỉnh núi kia mà! Nếu suốt chặng đường thực hiện công việc không có niềm vui, kết quả ấy liệu có ý nghĩa gì? Điều quan trọng là tinh thần chúng ta luôn sống động, những gì chúng ta thật sự kinh qua với sự có mặt của tâm lý thoải mái, vui tươi trong công việc.

Một câu hỏi không thể thiếu nữa là “những gì chúng ta đang làm đây góp phần thế nào vào mục đích chung của mình?” hoặc “mình làm việc này để nhằm mục đích gì?” Rõ ràng câu hỏi này là kim chỉ nam cho hành động của mình. Khi thấy công việc chúng ta đang thực hiện góp phần thực hiện kế hoạch lớn hơn, thực hiện nguyện vọng của mình, tự nhiên chúng ta có sức mạnh, tinh thần và niềm tin để thực hiện và hoàn thành tốt nhất trong khả năng có thể. Mỗi một việc chúng ta đang làm cần được xác định vị trí và tầm quan trọng trong bức tranh cuộc sống của mình. Cần xác định mục đích trong mỗi việc làm cụ thể và đặt nó vào mục đích chung của cuộc sống. Nếu lý tưởng cuộc sống là một đường thẳng hướng về phía trước thì mỗi một việc làm là một chấm nhỏ để góp phần hình thành đường thẳng ấy.

Câu hỏi tiếp theo cần quan tâm khi chuẩn bị thực hiện một công việc là “liệu có bao nhiêu giải pháp để thực hiện việc này và giải pháp nào là tối ưu?” Giống như liệt kê các công việc theo thứ tự ưu tiên về mức độ quan trọng, các giải pháp cho một vấn đề cũng cần liệt kê theo thứ tự ưu tiên dựa vào tiêu chí hiệu quả công việc tính trên mọi phương diện như kết quả, chất lượng, thời gian, công sức, chi phí... Trong điều kiện cụ thể với sự chi phối của các yếu tố bên ngoài, hãy tỉnh táo và khôn ngoan chọn lựa giải pháp tốt nhất để thực hiện công việc.

Thật ra, trong ngày chỉ có một vài công việc cần làm ngay mà không được chậm trễ, những việc còn lại có thể linh động thay đổi thứ tự, miễn sao cuối ngày, mọi chuyện đều hoàn thành có hiệu quả là đạt mục tiêu. Do đó, chúng ta không nhất thiết phải y theo thứ tự công việc được ghi ra trong danh sách công việc cần làm trong ngày và cứ thế mà thực hiện. Đừng để công việc đè mình! Cũng đừng để công việc biến mình thành một cỗ máy! Hãy dành một chút thời gian quán sát tâm mình, đặt ra 5 câu hỏi trên và trả lời một cách trung thực, sát với tình hình thực tế nhất, theo đó mà thực hiện lần lượt từng việc một, công việc sẽ tiến triển nhẹ nhàng và hiệu quả. Đừng ôm đồm vì đây là cách làm cho cả thân và tâm mệt mỏi thêm mà không làm cho tiến độ và chất lượng công việc tốt hơn vậy.

Chúng ta sống cả đời và làm việc cả đời. Tìm thấy niềm vui trong công việc là một niềm hạnh phúc lớn góp phần làm nên ý nghĩa một đời người vậy.

Posted by Hằng Như at 5:47 PM
Labels: Cuộc sống
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

Xã Tâm



1)- Nếu không làm chủ ý, để tâm dính mắc một điều gì thì tâm không thanh thản. Thế nên, khi có một niệm khởi lên thì tác ý để đánh bạt những tà niệm ấy .

2) Ngồi thiền phải luôn tỉnh thức. Nếu không tỉnh thức sẽ đi lạc thiền, bị tẩu hỏa nhập ma. Khi ngồi thiền mà cảm thấy tâm thanh thản, an lạc là đúng, nếu cảm thấy nhức đầu thì mau xả ngay đi kinh hành để tâm bình thường trở lại. Nếu thấy có sự an lạc trong tỉnh thức là đúng. An lạc mà đắm chìm trong an lạc, người đến gần mà không hay là sai .

3)- Cứ lo xả tâm cho thật sạch, ly dục ly ác pháp cho thật sạch, không cần phải quan tâm đến Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi xả tâm thật sạch thì tự nhiên nhập được các thiền định đó dễ dàng, vì thế nên thường để tâm thanh thản an lạc.

4)- Khi một niệm ác khởi lên, phải chặn đứng, xả ngay liền. Khi niệm thiện khởi lên, liền làm một việc thiện gì đó. Sau khi làm xong thì xả ngay, không để dính mắc vào việc thiện.

5)- Để tâm bình thường, thanh thản, vô sự, không kìm thúc tâm, không tập trung tâm chăm chú quá, mà chỉ để ý bình thường. Khi có một niệm khởi lên là tâm phóng dật, phải xả liền, đó là làm chủ cái ý.

6)- Hằng ngày phải thường xả tâm bằng pháp hướng, nhưng không nên dùng pháp hướng liên tục mà thỉnh thoảng 2, 3 phút hướng một lần. Đó là luôn luôn quán xét tâm đang khởi niệm gì thì liền xả ngay niệm đó. Còn không khởi niệm thì tâm đang ở trong trạng thái an lạc tỉnh thức . Như vậy ngồi chơi cũng là tu, ta không còn thấy thời gian trống trải. Pháp này rất ích lợi cho người giữ hạnh độc cư .

7)- Khi cô Út la rầy một người nào là để thử tâm họ còn sân hay không? La rầy thật cũng có và thử cũng có. Thấy người bị la rầy thì ta lấy đó làm bài học, đặt mình vào vị trí người bị la rầy mà rút kinh nghiệm để xả tâm sân giận.

8)- Không dính mắc vào kinh sách và băng giảng mà phải thực hành cho đúng thì mới có kết quả.

9)- Khi dự định làm một điều gì, (thí dụ: dự định nhập thất, sống độc cư trăm phần trăm), không nên nói cho ai biết, chỉ nên âm thầm thực hiện điều đó. Nếu nói ra thì gặp nhiều ma chướng không thực hiện được.

10)- Dùng câu pháp hướng nào phù hợp với sự việc đang dính mắc mà xả tâm thì xả rất nhanh .


a/ Khi bị người nói oan ức, thì xả tâm không buồn giận, mà tự kiểm tra lại mình có hành động hoặc lời nói gì khả nghi hay không, rồi đề phòng để sửa đổi những lỗi lầm mà mình đã phạm để người khác không còn nghĩ và nói oan cho mình nữa.

b/ Xả tâm tốt là khi sự việc nghịch ý đến mà mình biết, mình không còn buồn giận nữa. Đó là biết mình có xả tâm. Còn khi người ta nói nghịch ý mình cứ mặc kệ ai nói gì thì nói trơ trơ như gỗ đá thì đó là ức chế tâm.

c/ Nói ra những điều mình hiểu biết cho người khác nghe, càng tăng thêm tâm ngã mạn . Sống chung trong tập thể phải hòa đồng với tập thể, nhưng giữ hạnh độc cư thì không được nói chuyện. Cứ lo xả tâm tốt, tất nhiên sẽ sanh trí tuệ.

d/ Ngồi chơi thấy không có vẻ gì là tu mà thực sự là tu rất nhiều .

e/ Lo quán xét cái tâm, khi có một niệm khởi lên liền buông xả xuống. Xả tâm được rồi thì không còn thích mặc đẹp, ăn ngon nữa.

f/ Khi bị cô Út đập, thì xả tâm ngay, không nên buồn giận. Khi bị cô Út la rầy, thì phải tự xét mình có làm điều gì lỗi hay không, mà sửa đổi. Còn nếu không có lỗi thì phải biết rằng Út muốn nhắc nhở một điều gì đó và tác ý buông xả hết không buồn, không giận. Đó là xả tâm. Còn ôm ấp giận hờn trong tâm, ủ mày, ủ mặt là tu sai rồi. Đi tâm sự phân trần với người khác cũng sai luôn.

g/ Thực hành pháp hướng, phải tỉnh thức trong câu pháp hướng và nhiệt tâm thì xả tâm mới có hiệu quả. Thực hành pháp hướng mà tâm cứ nghĩ vẩn vơ, thì pháp hướng như câu thần chú, đọc liền liền mà không có kết quả gì hết.

h/ Giữ hạnh độc cư không phải là luôn luôn nín lặng, nếu có người hỏi việc đáng nói thì phải nói. Nếu lặng im không trả lời là tu sai rồi.

i/ Người tu là phải biết dừng cái ý, ý hay khởi niệm phải làm cái này, nhớ nghĩ điều kia, chuyện nọ. Thí dụ : Đang nhập thất, ý nhớ nghĩ phải ra phụ bếp, rồi theo ý đó mà phải ra ngoài. Như vậy là phá hạnh nhập thất, là tu sai . Khi đã nhập thất thì phải quyết tâm giữ trọn hạnh nhập thất. Luôn luôn quán xét cái ý của mình. Khi ý khởi niệm thì buông xả xuống liền. Nếu tâm còn loạn động thì không nên nhập thất, mà nên ở ngoài để xả tâm. Nếu không sẽ ức chế tâm bị tẩu hỏa nhập ma.

j/ Chính mình tạo cảnh vui hay địa ngục cho chính mình. Sống trong cảnh động mà xả tâm được thì chính nơi đó là Niết Bàn. Ở nhà bếp cũng là Niết Bàn chứ không phải ở trong thất mới thấy Niết Bàn.

k/ Khi nghe người ta trách mình một điều gì đó mà mình không có làm, thì không nên cãi lại, vì cãi lại là tâm mình đã dính mắc vào sự việc đó . Mình nên quán xét rồi xả tâm không màng đến điều người ta nói. Miễn sao tâm mình chơn chánh, ngay thẳng là được rồi .

l/ Dừng được ý là tạp khí hiện tại diệt, tạp khí hiện tại diệt thì tạp khí từ quá khứ cũng diệt. Do đó khi bỏ thân này sẽ được tự tại. Khi ý được thuần thục sau này sẽ nhập các định khác dễ dàng.

m/ Làm chủ ý là phải biết điều phục nó, chiến thắng nó. Khi ý niệm khởi lên trong giờ tu, nhớ cái này, nhớ cái nọ, mình phải biết khắc phục nó, không cho nó khởi. Nó khởi lên hoài nó sẽ quen, mình phải cương quyết thắng nó. Khi nó khởi lên thì tác ý” không khởi niệm nữa phải buông xả xuống, buông xuống”. Tác ý lâu ngày thì sẽ làm chủ được ý.

n/ Khi người ta làm khổ mình là người ta đưa mình vào địa ngục, thì mình phải biết thoát ra khỏi địa ngục đó. Mình phải tạo cảnh an vui cho mình, không được quyền làm khổ mình.

o/ Người tu mà đắp y để cho người ta lễ lạy mình là còn danh, còn tâm ngã mạn. Người tu đã đập vỡ tâm ngã mạn thì không đắp y, không còn muốn cho người lễ lạy mình.

p/Thực hành pháp hướng tâm đừng tập trung quá nhiều sẽ thành ức chế tâm. Nên dùng pháp hướng với tâm bình thường, thanh thản, vô sự. Tu trong thoải mái dễ chịu mà có kết quả.

q/ Muốn phá hôn trầm phải đi kinh hành cho nhiều.

r/ Những câu pháp hướng mà Thầy dạy là của Phật, của Thầy. Người tu đến một lúc nào đó, tự tâm phát sinh ra những câu pháp hướng, thì đó là những câu pháp hướng tự động, nó phù hợp với đặc tướng của mình.

s/ Đừng nên khuyên người đi tu. Để tự người ta ý thức cuộc đời là khổ rồi người ta tu thì mới xả tâm được.

t/ Thấy cuộc đời còn vui thích, hoặc bất mãn gia đình, hoặc buồn khổ một chuyện gì mà đi tu thì tu không được, xả tâm không được, chỉ bị ức chế tâm mà thôi.

Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

Pháp Đã Tự Hoàn Hảo




Sự thật về cuộc sống luôn sẵn có nơi mỗi người chúng ta, sẵn có xung quanh chúng ta. Những người hiểu ra điều này sẽ không thấy có vấn đề gì nữa, cũng không còn gì để họ phải theo đuổi nữa. Bây giờ họ chỉ sống với thực tại và tự chiêm nghiệm, học hỏi mà thấy ra thôi. Vì câu trả lời cho mọi vấn đề của cuộc sống đều nằm trong chính cuộc sống. Mọi thứ đã tự đầy đủ nơi thực tại hết rồi, không cần thêm bớt gì nữa.

Tất cả chân lý đều đã đầy đủ nơi chính mình ngay bây giờ và ở đây. Không phải nó sẽ chỉ xuất hiện sau quá trình nỗ lực tu tập mà nó đã có sẵn nơi mỗi người. Vì vậy người đã giác ngộ không bao giờ cho rằng ta giác ngộ "cao" hơn người khác, vì họ biết chân lý nơi mỗi người đều bình đẳng như nhau.

Và kỳ diệu hơn chân lý sẵn có trong bất kỳ cái gì, trong từng bông hoa, viên sỏi, chiếc lá… Như Đức Phật từng nói chỉ vì ta có nhiều "bụi" trong mắt nên không nhận ra. Những hạt bụi của những phiền não, tư kiến, tư dục, quan niệm, lý luận chủ quan. Chúng che mắt ta khiến ta không nhận ra được sự thật, mà sự thật này phổ biến và đơn giản tới mức chỉ cần buông xuống mọi ý đồ thì nó liền hiển hiện.

Vi vậy bước đầu tiên của Thiền chính là biết thư giãn, buông xả để cho thân tâm lặng lẽ vận hành, không thêm bớt gì cả. Mọi hoạt động của thân hay tâm lúc đó hoàn toàn tự nhiên, tự nó ứng ra, chứ không phải xuất phát từ ý đồ của một cái Ta nào cả. Khi đi thì chân cứ tự bước, vấp phải hòn đá thì tự tránh sang bên.

Thường thì ta có thói quen tưởng tượng ra một chủ thể, rồi chủ thế đó làm cái gì đó. Cái làm này gọi là làm một cách hữu vi. Còn khi những hành động, phản ứng tự nhiên ứng ra của thân và tâm trước hoàn cảnh mà không có ảo tưởng về chủ thể xen vào gọi là làm một cách vô vi. Như khi ta lái xe, tự thân và tâm điều khiển xe, thấy chướng ngại tự tránh đi, thấy đèn đỏ tự đứng lại. Không có cái ta nào đang lái xe cả, có thể lúc thân-tâm tự lái xe thì có cái ta ảo tưởng suy nghĩ lung tung với ý đồ gì đó thôi. Chỗ này ta cần phân biệt cho rõ, thế nào là làm một cách hữu vi và thế nào là vô vi. Buông ra không làm gì cả - không thái độ lăng xăng tạo tác, để yên cho thân-tâm tự nhiên vận hành, tức là làm một cách vô vi vậy.

Yếu tố đầu tiên của Thiền chính là thư giãn, buông xả.

Thường thì ta vẫn cố gắng tu tập, rèn luyện để đạt được chân lý. Có biết đâu cái chân lý mà ta muốn đạt tới chỉ là ảo tưởng từ tâm trí ta. Khi ta đọc sách, hay nghe lời giảng, trong tâm trí tự vẽ ra một chân lý ảo tưởng rồi ta muốn theo đuổi, níu giữ nó và sở hữu nó. Do mình tự nghĩ ra thì làm sao có thể là chân lý được. Chân lý là luôn có sẵn, hiển hiện ở khắp nơi. Nó không thể do bất cứ ai nghĩ ra, hay tạo ra.

Khi ta cố gắng rèn luyện, nỗ lực để đạt tới cái chân lý, mục đích do tâm trí của ta tự dựng lên thì chính ta đang bước vào con đường luân hồi sinh tử. Chính cái bản ngã ảo tưởng cứ thôi thúc ta muốn làm cái này cái kia, muốn tạo tác để trở thành liền rơi vào thập nhị nhân duyên. Nguyên nhân của việc tạo tác để trở thành chính là vô minh và ái dục. Vô minh là không thấy rõ thực tại đang là, còn ái dục chính là tham và sân.

Ngay tại đây, bây giờ khi ta buông mọi ý đồ để thấy rõ trọn vẹn thân-tâm đang vận hành, ngay đó là sự thật rồi nhưng ta lại không thấy là như vậy. Ta đi tìm một sự thực khác, chân lý khác hợp ý mình hơn. Thí dụ ta muốn đạt được Niết bàn. Có biết đâu Niết bàn là một khái niệm không có thực bởi vì buông khái niệm đi thì ngay đó là Niết bàn.

Khi tâm khởi lên một khái niệm dù là khái niệm về Niết bàn thì đã là vọng tưởng. Chỉ cần nghĩ về Niết bàn, ta liền đánh mất thực tại đang xảy ra và rơi vào vô minh mất rồi.

Khi ta muốn đạt được Niết bàn tức cho rằng những gì đang xảy ra nơi thân-tâm không phải Niết bàn và ta phải nỗ lực để biến chúng trở thành Niết bàn. Đó chính là tạo tác để trở thành. Vô minh-ái dục có ái-thủ-hữu để trở thành liền rơi vào luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau. Điều này Đức Phật nói rõ trong Thập Nhị Nhân Duyên.

Có một câu kệ rất hay:

"Chân bất lập, vọng bổn vô"

Chân lý luôn sẵn có, không thể do ta lập ra, đó chính là "chân bất lập". Bây giờ chỉ còn thấy vọng tưởng vốn không. Đức Phật dạy ta một cách hết sức đơn giản, đó là trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại nghĩa là tinh tấn-chính niệm-tỉnh giác. Trọn vẹn với những gì xảy ra nơi thân-tâm như nó đang là, không còn thêm bớt gì hết.

Khi ta ngồi một cách hoàn toàn thư giãn, buông xả để thân tâm nghỉ ngơi. Không còn ý đồ muốn tốt hơn, hay tìm cầu chân lý gì nữa thì làm sao vọng tưởng có thể nổi lên. Đó chính là "chân bất lập, vọng vốn không" vậy.

Nếu một người có thể hoàn toàn buông ra như thế và ngay đó chứng thực những gì đang xảy ra thì gọi là người đã "chứng ngộ". Vì vậy yếu tố đầu tiên của Thiền chính là thư giãn, buông xả. Để cho thân-tâm hoàn toàn nghỉ ngơi vô sự. Lúc đó tâm trở về với thái độ hoàn toàn rỗng lặng trong sáng tự nhiên của nó.

Nếu mỗi người dù đang ở trong các trạng thái khác nhau, nhưng trạng thái nào thì cứ thấy nó như vậy thôi, thái độ của tâm vẫn rỗng lặng trong sáng, không có bình luận, phán xét, phản ứng hay thêm bớt gì cả thì ngay đó là Niết Bàn. Đức Phật đã định nghĩa Niết Bàn rất đơn giản chính là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Niết Bàn chính là thái độ rỗng lặng trong sáng của tâm, chứ không phải là một trạng thái tốt đẹp, dễ chịu, hay cao siêu nào đó.

Tâm hoàn toàn rỗng lặng trong sáng mới là quan trọng, chứ không phải lúc đó ta đang ở trong trạng thái nào. Ta có thể đang bệnh, hoặc đang mạnh khỏe, đang thành công hay đang thất bại, đang hạnh phúc hay đang đau khổ, nhưng dù ta đang ở trong bất kỳ trạng thái nào thì tâm vẫn có thái độ rỗng lặng trong sáng. Và trong thái độ rỗng lặng trong sáng ấy, tất cả các trạng thái đều bình đẳng.

Ta có thói quen chọn lựa, cái này là thành công, cái kia là thất bại. Cho nên ta muốn tách cái thất bại ra, chỉ giữ lại cái thành công thôi. Cuộc đời đã bị ta chia ra làm nhiều mảnh gọi là "phân chia manh mún". Người thì thích mảnh này, người khác thích mảnh kia, cứ như vậy làm cho mọi thứ trở nên xáo trộn, mâu thuẫn, đối kháng gây ra phiền não khổ đau.

Nhưng có một điều kỳ lạ rằng chính những mặt đối nghịch lại giúp ta cân bằng giữa cuộc đời. Ví như người nghệ sỹ xiếc khi đi trên dây cần buông lỏng để tự điều chỉnh, nghiêng bên này một chút, nghiêng bên kia một chút mà giữ cân bằng. Anh ta càng căng cứng bao nhiêu càng nhanh mất cân bằng bấy nhiêu.

Nhờ có được, có mất, có vui lại có khổ, có đen có trắng,… nên tâm ta mới không bị dính mắc hay chìm đắm mà được trở về với thái độ rỗng lặng trong sáng tự nhiên vốn có của nó. Một người cứ sống tự nhiên, không có ý đồ tìm cầu cái tốt hơn hay thêm bớt gì cả bảo đảm sẽ tới Niết Bàn. Có câu chuyện: "Người tu như khúc gỗ trôi sông" thế này:

"...Một hôm, đứng trên bờ sông Ganga, Phật nhìn thấy một khúc gỗ lớn đang trôi theo dòng nước chảy về phương đông. Phật gọi các vị khất sĩ đến, chỉ cho họ thấy khúc gỗ đang trôi và nói:
- Này các thầy, khúc gỗ kia nếu không bị vướng mắc vào hai bên bờ, nếu không bị mắc cạn, bị người ta vớt lên hoặc bị mục nát tan rã, thì sẽ cứ trôi như thế cho đến ngày ra tới biển cả. Các thầy cũng thế, trên con đường tu tiến theo chánh pháp, nếu các thầy không bị vướng mắc vào các cạm bẫy của cuộc sống hằng ngày, nếu các thầy không bị người đời lôi kéo ra khỏi con đường tu tiến, nếu các thầy không tự thối chí ngã lòng, thì chắc chắn các thầy cũng sẽ đi đến đại dương của sự giải thoát và giác ngộ hoàn toàn…"[1]

Vướng mắc vào bờ bên nay hay bờ bên kia tức là khi tâm ta không trọn vẹn với thực tại đang là, mà lại chọn cái này, bỏ cái kia. Khúc gỗ bị mắc cạn có nghĩa là khi tâm ta bám víu (chấp) vào một cái gì đó. Thí dụ một người đắc được thiền định và chỉ thích vào định nên bị kẹt ở đó. Hoặc một người đang có danh vọng rất cao trong xã hội nên bị kẹt vào chức danh đó. Khúc gỗ bị mục nát tức là tự huỷ hoại bản thân, ăn chơi vô độ vì tham, sân và si. Khúc gỗ bị vớt lên tức là khi ta mải mê chạy theo những mục đích và vọng tưởng mà rời xa thực tại đang là. Muốn đạt tới Thiên Đường hay Niết Bàn cũng nằm trong trường hợp này.

Chỉ cần trở về ngay thực tại mà nhìn lại thân, nhìn lại thọ, nhìn lại tâm, nhìn lại pháp như nó đang là. Tức là khi nhìn lại thân thì thấy thân thôi chứ không thấy nó là của tôi, nó già hay trẻ, đẹp hay xấu. Khi nhìn lại thọ thì chỉ thấy những cảm giác, cảm xúc đang diễn ra nhưng không thấy ai đang hứng chịu những cảm xúc, cảm giác đó. Khi khổ chỉ có khổ thôi, không có ai đang khổ. Khi buồn cũng chỉ có buồn như nó đang là vậy thôi, chứ không có ai đang buồn. Tức là nhận thấy rõ ràng rằng không có cái Ta và Của Ta ảo tưởng nào trong thực tại đang diễn ra. Vậy là ngay đó ta thoát khỏi phiển não và khổ đau.

Khi ta chưa thể nhìn lại thân-thọ-tâm-pháp như nó đang là, mà còn cho là theo tư kiến của mình, phải là theo nỗ lực của mình, sẽ là theo mong muốn của mình thì ta vẫn còn bất an và đau khổ. Chính những bất an và đau khổ này là tín hiệu báo động rằng ta đã không chịu thấy sự thật như nó đang là, ta đang rời xa chân lý nơi thực tại. Ta đi tìm chân lý bằng cách đánh mất chân lý đã sẵn có nơi ta.

Và hãy nhớ chân lý nằm ở thái độ chứ không phải trạng thái, nằm ở cách vận hành chứ không ở nơi kết quả. Có một tu sĩ mặc dù đang chịu nhiều đau đớn vì ghẻ lở đầy thân nhưng sau khi nghe Đức Phật giảng mà thấy ra được cái thân và tâm này là vô thường, khổ, vô ngã thì vị đó cũng đắc đạo quả.

Sống trong đời đừng chú tâm tới kết quả thành, bại, được, mất…, cũng đừng chú tâm tới trạng thái như vui, buồn, khổ, bất an… mà hãy luôn nhận biết rõ thái độ của tâm dù ta đang ở trong bất kỳ trạng thái nào, dù ta đang đối diện với bất kỳ kết quả nào. Niết Bàn chính là thái độ rỗng lặng trong sáng để thân-tâm có thể ở trong bất kỳ trạng thái nào. Khi đau khổ, thất bại cũng vẫn là Niết Bàn, và khi hạnh phúc, thành công cũng vậy.

Niết Bàn có mặt ngay khi cái Ta ảo tưởng được buông xuống hoàn toàn. Thay đổi thái độ là ngay lập tức, còn thay đổi trạng thái cần có thời gian. Như lời Đức Phật dạy:"Chân lý là trở lại mà thấy, mỗi người tự thấy, thấy lập tức ngay trên chính thực tại đang là, không qua thời gian".

"Svakkhāto Bhagavatā Dhammo,
Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko,
Paccatam Vedittabo Viññūhi"

Svakkhāto Bhagavatā Dhammo – Pháp mà đức Thế Tôn khai thị là chân lý hay sự thật tuyệt đối 
Sanditthiko - Thấy ngay lập tức 
Akāliko - Không qua thời gian 
Ehipassiko - Trở lại mà thấy 
Opanayiko - Ngay trên chính thực tại đó 
Paccatam Vedittabo Viññūhi - Mỗi người tự chứng ngộ 

Có nhiều người đã làm được điều này. Có người ngay khi đang bệnh đau thập tử nhất sinh tự nhiên buông ra được và ngay đó thấy hoàn toàn thanh thoát nhẹ nhàng. Mặc dù vẫn rất đau, nhưng không còn khổ nữa. Vì người đó biết khổ chỉ xảy ra khi đau mà lại không muốn cái đau ấy mà thôi.

Thiền Sư Viên Minh
Sưu tầm: Hanh Nghiêm