Trong kinh “Phật thuyết Bát đại nhân giác” có lời dạy:
“Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp”
Đây chỉ là một phần của bài kệ nhưng đã biểu hiện đến độ sâu thẳm khi ta trầm tư trong tỉnh lự. Trong thời đại ngày nay, con người đã đạt được những khám phá kỳ diệu của vũ trụ, của những thành tựu khoa học công nghệ. Nhưng hình như còn nhiều vấn đề về bên trong nội tâm con người, cũng như về bản chất thực sự, chưa thu được những kết quả tương xứng. Theo thuật ngữ của Phật giáo, con người đang còn vây kín bởi vô minh, kết quả là con người giải thích sai lầm mọi điều, và hành động theo sự sai lầm ấy, nên khoác lên mình một lý lịch sai lầm của cái ngã ích kỹ cao ngạo.
Con người là quả cao nhất trên cây tiến hoá, nên con người cần phải hiểu được vị trí của mình trong tự nhiên và hiểu được ý nghĩa thực sự của đời mình. Nhưng dường như, chúng ta không thích đối đầu với sự thật của đời sống: sự thật đối với tha nhân và xã hội; sự thật với thiên nhiên và vũ trụ. Trái lại, chúng ta ưa thích tự ru ngủ bằng cảm giác an tâm giả tạo trong giấc mơ và tưởng tượng hảo huyền, điều động bởi dục vọng vật chất mang tính mù quáng và không có điểm dừng.
Ý của Kinh dạy: muốn thoát khỏi phiền não, phải quan sát sự tri túc. Người không tri túc thường bị ngũ dục lôi kéo. Tri túc là: phải hiểu và trân trọng tất cả những gì mình vốn có. Tri túc thì luôn được an lạc. Tinh thần “thường niệm tri túc” được xem là quan trọng để trở thành một con người giàu có và hạnh phúc theo nghĩa xa lánh được những khát vọng thấp kém, bn chen lợi danh, tranh giành quyền thế. Với cách sống này, con người có điều kiện đi vào cảnh giới an lạc, hạnh phúc và giải thoát bằng từng hành động của thân, khẩu, ý. Cảnh giới ngoài sự điều động của tham, sân, si được gọi là cảnh giới vô vi; cảnh giới của “không đến, không đi” của “không sanh, không diệt“, hay của sự đoạn diệt khổ.
Trí tuệ Duyên khởi xác minh sự cộng tồn giữa tất cả mọi sinh vật, phản ảnh sự hiểu biết về bản chất phụ thuộc lẫn nhau của mọi tồn tại. Điều này biểu đạt một cơ sở của “chủ nghĩa sinh vật bình đẳng” làm nền tảng đạo đức cho con người và soi sáng cho con người nhận thức và hành động thực tế đối với các hiện hữu có liên quan đối với con người như các loại sinh vật, động vật khác v.v..
Dưới đôi mắt tuệ giác của Phật, con người không khác gì hơn là hiện hữu của “Mười hai nhân duyên“. Sự vận hành của “Mười hai nhân duyên” là “Năm uẩn” của con người. Do đó thể nhận của sự vận hành ấy đồng nghĩa là thể nhận con người như thật.
Sắc uẩn là cơ thể vật lý. Thọ uẩn gồm cảm thọ khởi lên từ giao tiếp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và của ý. Tưởng uẩn gồm có tư tưởng về sắc, thanh, hương, vị và về thế giới hiện tượng. Hành uẩn là tất cả hành động về thân, khẩu, ý. Thức uẩn gồm nhân thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Con người là như vậy, là do các duyên thuộc thế giới vật lý và tâm lý. Mỗi cá nhân đều có liên quan đến cá nhân khác, đến xã hội, đến thiên nhiên và nhất thiết không hiện hữu tự thể. Do đó, đạo Phật có nói đến tính vô ngã, vô thường.
Trong hệ thống Năm uẩn, Thức uẩn (conscióuness) là tri giác – hiện hữu, không thể phân định Thức là ở quá khứ hay tương lai vì nó là “dòng vận hành bất tuyệt“. Trong lúc sinh thành thì được gọi là Kiết sinh thức. Khi mạng căn chấm dứt (sự chết), thân vật lý tan rã, Thức năng vẫn tồn tại, nó sẽ gọi là Nghiệp thức, có công năng dẫn đến sự tái sinh vì nó vô hình, không mang tính vật lý thì lấy gì mà biến đổi và mất đi. Tuy nhiên, Thức uẩn không thường tại, mà là hiện thân của tiến trình tương tục.
Một khía cạnh rối răm khác gặp phải khi định nghĩa Thức uẩn là tri giác – hiện hữu, chính là sự nhận thức được nhìn từ tổng tướng bởi ý thức phân biệt đối với một hiện hữu hàm chứa trong nó một tiến trình hiện hữu.
Những gì được phân tích, suy luận và tiếp nhận qua tri giác chỉ là chân lý thường nghiệm mang tính tương đối, chứ không phải là cảnh giới tự chứng của chư Phật hay là chân lý tuyệt đối. Từ những chi tiết trên, ta thấy con người là một sinh thể hữu hạn bởi sinh lão, bệnh tử.v.v..; vừa là vô hạn. Nó vô hạn từ sự định hướng đoạn trừ Ái dục, khi Ái, Thủ được đoạn diệt thì “Mười hai khoen xích nhân duyên” của thế giới sinh tử luân hồi tan ra.
“Do vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên lục nhập; lục nhập duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sinh; sinh duyên lão tử”.
Theo kiến giải của các luận sư Phật học, nếu chỉ nắm bắt cái khái niệm bên trên ở cấp độ bề mặt của Thức thì chúng ta sẽ không thấy được bản chất của chúng ở tầng sâu hơn, rộng lớn hơn trên nền tảng của Duyên khởi. Biểu hiện của Thức là thế giới sơn hà, đại địa, sum la vạn tượng, mà con người nhận biết, cụ thể là tất cả những hoạt động trong đời sống con người như: ngân hàng, siêu thị, giáo dục, y tế, các đoàn thể xã hội.v.v..
Mối quan hệ giữa con người và thế giới, cũng như chủ thể và khách thể tựa hồ như khi đứng nhìn đỉnh núi vào lúc chiều tà, ta đang mất hút trong nó và nó đang hiển thị, phô trần trong ta. Tính bất khả phân giữa chủ thể tri giác và đối tượng tri giác gọi là Duy thức hay “chỉ có thức biểu biệt“. Điều này nói rằng: không phải chỉ có tâm thức, mà không có thực tại khách quan. Do đó, Duy thức là biểu hiện, biểu biệt của tâm thức và nếu thiếu vắng tâm thức thì tất cả các đối tượng của nó, gọi là Pháp, đều không có mặt.
Theo học thuyết Duy thức, tầng cao nhất thuộc ý thức của con người được hình thành từ Tiền ngũ thức, tương ứng với năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân). Tiền ngũ thức chính là sự nhận thức của các cơ quan cảm giác như: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức.
Ý thức là thức thứ sáu bao gồm sự phân biệt, tổng hợp sự nhận thức của năm giác quan thành ảnh tượng mạch lạc.
Thức thứ bảy gọi là Mạt na thức, nó hoạt động như một trạm thu thập những hoạt động của sáu thức kia. Thức này phân biệt thế giới tinh thần bên trong. Sự nhận thức cơ bản về Ngã, khởi đầu từ cấp độ này. Sự chấp chặt về Ngã mà tạo nên ác nghiệp cũng từ đây. Những nghiệp này gồm Ngã si dẫn đến vô minh; Ngã mạn có thể tạo nên tính kiêu mạn; Ngã kiến thường là những kiến giải sai lầm và Ngã ái là gốc của sự tham lam. Tính khí của Mạt na thức trên nền tảng bốn phạm trù nghiệp nói trên đã mô tả bao quát toàn bộ đời sống nhu cầu sinh lý con người. Vì rằng sự khổ đau hay hạnh phúc của con người đều bắt nguồn từ sự chấp thủ cái tôi, cái của tôi và cái tự ngã của tôi.
Nói theo tâm lý hiện đại, thì hình thái của Mạt na thức chính là sự vận hành của tư duy hữu ngã theo sự điều động của ái dục thúc đẩy tâm lý tìm kiếm sự thoả mãn dục vọng, khoái lạc, là thứ hạnh phúc giả tạo và điên dại. Đây cũng là tập khí di truyền của đời sống tâm thức, nó cũng là “ý niệm tối sợ“ hay còn gọi là “kiết sinh thức” trong mỗi “chu kỳ đời sống mới” .
Trong Kinh Lăng Già có bài kệ viết:
Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sinh
(Thích Thanh Từ dịch)
Nằm trong tầng sâu hơn Mạt na thức là thức thứ tám, có tên A lại da thức hay còn gọi là Tàng thức. Đây là thức bất tử vì nó được xem là đi qua dòng sinh tử. Nó là thực thể căn bản thuộc sự chuyển sinh liên tục, vĩnh hằng của sinh mệnh. Tàng thức có các đặc tính:
+ Tất cả những kinh nghiệm của sinh mệnh do bảy thức trước phát khởi hay do những hoạt động thuộc thể chất hoặc tinh thần thông qua ba nghiệp gồm thân, khẩu, ý, được lưu giữ dưới dạng chủng tử trong Tàng thức. Những chủng này được bảo trì, phát triển và thành thục rồi cho ra đời một hiện hữu mới. Trước viễn cảnh của dòng sông tâm thức, mọi hiện tượng tâm lý sinh khởi hay mất đi đều nướng vào chủng tử có sẵn mà thuật ngữ gọi là “Chủng tử bản hữu” trong Tàng thức.
Trong sự giao tiếp với hiện tại của dòng tâm thức, chủng tử bản hữu có điều kiện vun trồng, tưới tẩm sẽ hiện hành và chủng tử mới được giao vào Tàng thức gọi là tân huân chủng tử. Sự tưới tẩm, xông ướp, chăm sóc thường xuyên thì chủng tử tân huân là tập khí. Chẳng hạn, niệm Phật lần đầu tiên là tân huân và cứ mỗi ngày đều niệm là huân tập và ý niệm về Phật đã thể hiện trong phong thái cuộc sống là tập khí.
Vì các chủng tử này được khái niệm hoá thông qua ngôn ngữ nên để lại sự ảnh hưởng rất sâu sắc. Nhìn từ góc độ của đạo đức thì có những chủng tử thiện, chủng tử ác và chủng tử vô ký (không thiện, không ác). Từ ý nghĩa này, dù thân nghiệp, ý nghiệp là thiện hay ác đều in dấu trong Tàng thức dưới dạng chủng tử nghiệp. Về mặt bản chất, Tàng thức là trung tính, như tờ giấy trắng và những chủng tử thiện và ác sẽ quyết định một điều kiện của nó trong thế giới tương lai.
Ba thể dạng, tân huân, huân tập và tập khí là một tiến trình của đời sống tâm thức. Nó biểu hiện cụ thể qua thói quen, phong cách hay cá tính tạo nên cái biệt nghiệp của mỗi cá nhân. Những hoạt động của thân và tâm của một người vốn mang tính cá nhân, do đó chúng được tác thành bởi biệt nghiệp. Trái lại, môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội chung cho tất cả mọi thành viên, vì thế chúng được hình thành bởi cộng nghiệp: sông, núi, trái đất v.v... được sinh ra từ cộng nghiệp và ngược lại các loài hữu tình được sinh ra từ biệt nghiệp.
Thuyết Duy thức của Pháp Tướng Tông cho rằng Như Lai Tạng hay Chân Tâm bị che lấp mới trở thành Tàng thức nên Tàng thức được ví như nền tảng của tâm thức, là đất để tâm phát triển, là thể của tâm.
Chính vì vậy, Tàng thức có những chức năng riêng để nhận thức. Sự nhận thức được thể hiện phản ảnh qua các hoạt động của thân, khẩu và ý, rồi chúng lại được in dấu vào Tàng thức bằng các chủng tử. Tiến trình này được định danh là “Duyên khởi của Tàng thức”. Vòng phản hồi biệt nghiệp của Tàng thức ở cá nhân sẽ được hình thành tại đây. Bồ Tát Thế Thân phát biểu rằng: A lại da thức, thường thay đổi và giống như một dòng nước lũ“ (Hằng chuyển như bộc lưu)
Kết quả được nhìn từ phía duyên khởi thì ba nghiệp thân, khẩu, ý biểu đạt chính nó một cách mới mẻ, nên Tàng thức luôn luôn thay đổi do sự tích chứa biệt nghiệp chủng tử mới như thế. Và rõ ràng, khi được chia sẽ với cộng đồng xã hội, với môi trường thiên nhiên thì các biệt nghiệp có thể trở thành cộng nghiệp.
+ Hiện thân của tập khí chính là con người toàn diện về hai mặt tâm lý và vật lý, tư duy và hành động, vật chất và tinh thần, tự tướng và tổng tướng, biệt nghiệp và cộng nghiệp, cá nhân và cộng đồng v.v... Tại nơi đây không thể tìm ra một hiện tượng mang tính cách hoặc riêng, hoặc chung. Trong cái riêng có cái chung và trong cái chung có cái riêng nghĩa là nó phơi bày ra lý duyên khởi và lý trung đạo.
“Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt
Khi cái này không có mặt thì cái kia không có mặt
Khi cái này sinh khởi thì cái kia sinh khởi
Khi cái này đoạn diệt thì cái kia đoạn diệt”
Như vậy, tập khí hay phong cách sống của một cá nhân cũng phản ánh một mặt nào đó cái phong cách sống của mọi người trong cùng một xã hội, một giai đoạn lịch sử: vì mỗi cá nhân là sản phẩm của chính mình, lại vừa là sản phẩm của cộng đồng xã hội mà cá nhân đó là một thành viên.
Trong quan điểm này, mối liên hệ giữa cá nhân với tâm thức, giữa cá nhân với xã hội, giữa con người với thiên nhiên, những mối quan hệ là những phương diện trong cách nhận thức thế giới của Phật giáo.
Khái niệm này cho thấy cộng nghiệp được lưu vào Tàng thức duy trì được những mối liên hệ sinh động với cộng đồng, với xã hội và môi trường thiên nhiên và chuyển đổi liên tục dẫn đến sự tích luỹ các cộng nghiệp mới để cuối cùng biểu lộ chính nó trở thành hiện tượng. Tóm lại, cả thế giới hiện thực khách quan với muôn vạn dị biệt đa thù, lẫn các hiện tượng tâm lý như buồn vui, giận hờn, yêu thương đều là các biểu hiện của Tàng thức.
Theo đạo Phật, con người trước hết là biểu hiện từ Tàng thức bao gồm các nhân duyên: địa, phong, thuỷ, hoả, không, thời, phương, thức và xuất hiện như một tổng thể của 5 uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bản chất của con người là một tích hợp của nhân duyên với dòng nghiệp thức, dòng nghiệp ở đây chính hạt giống, các tập khí, các tạo tác trong sâu thẳm của tâm thức và là nguyên uỷ cho vòng luân hồi sinh tử của một dòng sinh mệnh.
Môi trường sống là không gian cho sự cộng sinh của muôn loài bao gồm cả con người được điều phối nghiêm ngặt của nguyên lý Duyên khởi và tiến trình vòng phản hồi của cộng nghiệp trong Tàng thức.
Cho đến muôn thuở, nhân loại đã cải tạo biến đổi môi trường sống chỉ nhắm thẳng mục đích đáp ứng dục vọng của con người. Nói cách khác những gì thuộc bên trong con người như những dục vọng sẽ được biến hiện thành những thành tố bên ngoài môi trường sống và chính sản phẩm của dục vọng này lại trở thành đối tượng kích thích ngũ quan: sắc, thanh, hương, vị, và xúc giác con người. Từ ban đầu, cộng nghiệp như là một tổng thể có qui mô nhỏ, nhưng dần dà thông qua vòng phản hồi của Tàng thức, phóng đại tính cộng nghiệp theo biên độ rộng lớn trong cả cộng đồng nhân loại.
Thực ra, ta cần phân biệt giữa hai khái niệm dục vọng và khát vọng. Dục vọng về bản chất là một sức mạnh mù quáng nó như một sự thèm khát đầy dẩy dằn vặt tâm trí, bị điều động bởi lòng ích kỷ, nó chỉ nhằm thoả mãn những toan tính vô hạn của cuộc sống tầm thường. Dục vọng nhanh chóng biến chất để chuyển thành độc tố tham, sân, si của Tâm ngay khi nó trở nên gay gắt, ám ảnh hoặc chấp thủ không kiểm soát được. Trái lại, khát vọng nảy sinh từ tâm ý muốn biến mình thành người tốt, phụng sự cho phúc lạc con người, hoặc vươn tới giác ngộ tâm linh.
Sự chuyển hoá Tàng thức.
Như đã trình bày, Tàng thức dung chứa các hạt giống vừa ô nhiễm vừa thanh tịnh. Sự chuyển hoá có mục đích làm tan biến, diệt tận các hạt nhân ô nhiễm, bất thiện, trả lại bản tính thanh tịnh, chân thật của nó. Nói một cách cụ thể là giải trừ các hạt giống tạp niệm trôi lăn trong diễn biến tâm lý của chủ thể nhận thức.
Con người hiện hữu trong môi trường sống tương tác nhận thức của mình thông qua ngũ quan và được tổng hợp vào ý thức (thức thứ 6) và cũng được nhận thức bởi Tàng thức (thức thứ 8), Hầu hết các biểu hiện của chủng tử được in vào Tàng thức thông qua ngôn ngữ bằng các phương tiện như giáo dục, đối thoại, diễn thuyết, báo chí, triển lãm v.v... là các chủng tử nghiệp thiện. Các chủng này lại được lưu giữ thông qua vòng phản hồi của xã hội sẽ là cộng nghiệp tốt, tác dụng tốt trong tương lai.
Mặt khác, bằng phẩm hạnh nhẫn nhục, phát triển chánh niệm, chịu đựng khó khăn, thực hành thiểu dục với tinh thần tri túc, kiềm chế tham lam, không để tâm trí bị đầu độc, bị ám ảnh bởi những xa hoa phù phiếm của vật chất, bởi những tham đắm quyền thế. Sau cùng, quán về Tính không của vạn hữu để nuôi dưỡng ý thức về mối quan hệ Duyên khởi giữa tất cả dạng thức sống, để nhận ra sự cộng tồn giữa con người và sinh vật khác và từ đó con người trực nhận được sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh về mặt sinh mệnh nhưng vẫn dành cho con người một dạng sinh mệnh thông minh hơn có quyền ưu tiên.
Điều phải suy ngẩm
Dường như, ngày nào sự phát triển khoa học và kỹ thuật còn phát triển mạnh, bí mật của thiên nhiên không ngừng được khám phá, phơi bày trước mắt con người, thì nhân loại càng trở nên cuồng vọng hơn. Dưới ảnh hưởng tư tưởng duy vật luận của phương Tây, con người vẫn cho rằng vật chất quyết định ý thức, vật chất trở thành mục tiêu cao cả, ưu tiên cho cuộc sống, và vì thế con người dần dà bị vật chất hoá, không hay không biết tự lúc nào.
Con người vẫn mãi mê nhận thức rằng chỉ có điều kiện vật chất càng nhiều thì hạnh phúc càng ổn định và vì thế dưới mục tiêu chung của phát triển kinh tế thì lực lượng tiềm ẩn của con người đã được kích thích một cách mãnh liệt, trạng thái tâm lý thay đổi, chao đảo không ngừng và dường như ý nghĩa kiếp người chỉ được đo bằng con số trên tài sản của họ sau bao năm tháng bôn ba.
Xét từ quan điểm của Phật học, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của đời người là không khác nhau. Lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân cũng là một thể. Vì vậy tư tưởng tìm kiếm lợi ích trước mắt để làm giàu không nghỉ đến hành vi tức thời sẽ gây đến hậu quả đến mai sau là một điều quá tai hại cho cộng đồng xã hội và rộng hơn cho toàn thể nhân lại. Đây chính là vấn nạn của môi trường sinh thái và sâu xa hơn là vấn nạn của biến đổi khí hậu mà nhân loại đang đối mặt trong toàn cầu như hiện nay.
Quan niệm của Phật giáo về sinh mệnh con người trong vũ trụ xuất phát thông qua trực giác của Đức Phật sau khi ngồi thiền định dưới cội Bồ-đề và khám phá bản chất của vũ trụ, Ngài đã nhận ra rằng bản thân đời sống không thể tách rời nguồn gốc của sinh mệnh muôn loài và vũ trụ mà nó được hình thành trong đó Ngài đã đặt tên là sinh mệnh cơ bản hay còn gọi là Pháp (dhamma). Đức Phật đã thấy rõ sinh mệnh vũ trụ và tính bất nhị giữa Ngài và vũ trụ trong chiều sâu thẳm.
Theo các luận sư Phật học. Pháp không có hình dạng, nó là sinh mệnh trong sinh mệnh, thuật ngữ khác dùng thay cho Pháp gọi là Như Lai. Như Lai “là người đã đến như thế” danh hiệu chỉ một vị đã đến bậc giác ngộ cao nhất, bậc Chánh đẳng, Chánh giác, đôi khi có nghĩa là biểu hiện cụ thể của Chân như, thể tính của vũ trụ, được xem là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể. Như Lai trong nhiều trường hợp đồng nghĩa với trí huệ, với Không tánh.
Mọi thứ hiện hữu trong vũ trụ được kết nối bằng luật Duyên khởi, một nguyên lý của tính tương đối mang bản chất khoa học hiện đại. Tác dụng của sinh mệnh vũ trụ là thực hiện những hành động trong mạng lưới phức tạp của nhân quả. Quá trình vận hành của sự tiến hoá sinh mệnh và thế giới vật chất làm xuất hiện dạng sinh mệnh thông minh gọi là con người.
Trong Kinh Đại Thừa có dạy: Trong vũ trụ bao la rộng lớn này tồn tại những dạng sinh mệnh thông minh khác hoạt động xuyên suốt trong sự phát triển của nó, đó chính là khái niệm: “Quốc độ của Phật“ ở quá khứ, hiện tại và vị lai trong mười phương. Bởi vậy, con người phải nỗ lực thực hiện những hành động tương thích với nhận thức cao hơn của mình.
Nhìn trên qui mô địa cầu, hệ thống sinh thái, tiến hoá chọn lọc, phát triển theo cách sáng tạo và nhân loại là một thành viên trong cộng đồng này. Con người là vốn quý, là bậc linh trưởng của vạn vật vì có tâm thức có tự do chọn lựa, khác với động vật. Sung sướng, hạnh phúc, đau khổ và phiền muộn đều là các cảm giác lưu xuất từ tâm, cho nên phải có nhận thức sâu sắc về tác dụng của tâm linh, và chính tâm linh chứ không có nhân tố nào khác là cội nguồn ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự thay đổi của thế giới mà con người đang sống. Chính đời sống, xã hội, thế giới của con người, do con người muốn làm ra chứ không phải do một sự mặc khải nào cả.
SÁCH THAM KHẢO
1. Thích Chơn Thiện: Lý thuyết Nhân tính qua Kinh Tạng Pali - NXB Phương Đông 2009.
2. Tuệ Sỹ (dịch và chú) – Thành Duy Thức - NXB Phương Đông 2009.
3. Pháp Hiền – Triết học và khoa học Tây Phương - NXB Phương Đông 2010.
Đặng Công Hanh
Sưu tầm: Hanh Nghiêm