Kẻ thù thứ ba của ta là hôn trầm hay thụy miên, uể oải, và buồn ngủ.
Tôi đã nói với các bạn về hai kẻ thù của chúng ta, bất hạnh thay ta còn ba kẻ thù khác nữa. Hai kẻ thù đầu: tham và sân, là chướng ngại lớn nhất của con người. Nói vậy không có nghĩa là ta không có cái đối trị. Đó là sự rộng lượng và lòng từ bi. Vấn đề là ta phải biết gieo trồng cái tốt và trừ bỏ cái xấu.
Nói thì dễ, nhưng hành khó lắm thay. Nhưng nếu ta không cố thực hành chúng thì ta đã không đi theo con đường Phật dạy. Đó là những công việc ta phải làm không ngừng nghĩ. Những công việc nầy không liên quan gì đến việc ngồi thiền. Chúng đòi hỏi tất cả thời gian của ta. Giả thử ta ngủ nghỉ khoảng 5, 6 hay 7 tiếng một ngày, ta còn lại 17 tiếng. Nếu ta nghĩ rằng khi ngồi thiền một, hai tiếng sáng chiều là đã thực hành được những điều nầy, nghĩ như thế thì ta chẳng đi tới đâu cả. Nếu ta chỉ nhớ lời Đức Phật dạy trong vài tiếng mỗi ngày, còn lại không nhớ tới -điều nầy nghe có vẻ lạ, nhưng vẫn thường xảy ra- thì ta khó thể tìm được sự Giải thoát.
Kẻ thù thứ ba của ta là hôn trầm hay thụy miên, uể oải, và buồn ngủ, hai kẻ thù của ta lúc toạ thiền có phải không? Chúng ta chắc ai cũng kinh nghiệm qua. Đó là lúc tâm không ngủ, nhưng cũng không thức. Trạng thái dật dờ khó thể làm nên chuyện gì. Chỉ khác với cái ngủ là ta có thể dễ dàng ra khỏi đó hơn. Nhưng dầu không mê mang như khi ngủ, nó vẫn đáo đi, đáo lại.
Tâm trạng nầy ở ngoài đời được coi là không có phương hướng, từ đó dẫn đến thiếu nghị lực. Nó là một trạng thái thông thường đến nổi, khi một người nào đó có nghị lực, ta sẽ nhận ra ngay. Và Nghị lực là một trong bảy yếu tố dẫn đến sự Giác ngộ. Thật là một điều không thể thiếu trong việc rèn luyện tâm.
Nghị lực nẩy sinh khi ta có một phương hướng nhất định. Ta biết rõ con đường phải đi và miệt mài đi tới. Nhưng khi ta không có mục đích gì rõ ràng hơn là giữ cho thân thể tứ đại nầy sống, thì không có nghị lực gì có thể phát sinh. Sống như thế không có gì hứng thú cả. Không ai có thể sống được như thế. Dồn tất cả sức lực, tâm trí vào chỉ để sống không phải là một việc làm hiệu quả, ta sẽ không thể có nghị lực để sống như thế. Trái lại ta còn cảm thầy bị đè nén, trì kéo xuống.
Đức Phật đã so sánh hôn trầm thụy miên giống như một nhà tù. Khi ta bị giam trong một căn phòng nhỏ, trong tù, ta khó thể làm được gì cho đến khi được tự do. Khi tâm trí ta bị sự uể oải, ngầy ngật (uể oải ở thân thể, và ngầy ngật trong tâm), giam hãm, tù túng đến nổi ta chỉ có đủ nghị lực để kéo lê một kiếp sống.
Phần đông chúng ta không biết hay không nghĩ hành thiền là một việc làm cần thiết cho ta, nên tâm ta dễ dàng đầu hàng các trở ngại. Ta phải nắm thật rõ về sự lợi ích của việc tọa thiền. Ta không chỉ cần ăn, ngủ, tắm rửa, giặt giủ, là những chuyện bình thường trong cuộc sống, không cần nhiều đến năng lực. Chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng. Nhưng hành thiền đòi hỏi ta phải có nghị lực, và nghị lực chỉ có thể phát sinh khi tâm biết được tầm quan trọng của thiền, nếu tâm ta biết rõ điều đó thì ta biết là ta phải làm gì.
Khi mê đọc một quyển sách, ta có thể thức đến nửa đêm để đọc, mà không thấy mệt, ta chỉ ngồi đó miệt mài đọc. Hay khi dự đám tiệc, ta có thể nói suốt buổi mà không mệt, vì ta vui thích.
Tu tập thiền cũng phải làm ta say mê. Khi đó không còn lý do gì mà tâm không phấn khởi. Lúc đầu, tập thiền thật không thú vị chút nào. Nó có vẻ phiền phức quá. Khó quá. Đau quá. Nhưng khi tâm đã hiểu ra được tầm quan trọng của việc ta làm, biết từng giây phút tâm khởi niệm, ta sẽ thấy hứng thú để tìm hiểu chính tâm ta. Còn gì hấp dẫn hơn thế chứ? Đọc một quyển sách hay trò chuyện với người khác, ta chỉ biết về người khác. Nhưng nếu ta có thể theo dỏi tâm từng giây phút, lúc nó dấy niệm, lúc nó tĩnh lặng, rồi lại dấy niệm, lại tĩnh lặng, thì đó là một việc hấp dẫn và lợi ích nhất mà ta có thể làm chính mình.
Một lần Mahà Moggallàna đến sám hối với Phật rằng ông đã ngủ gục trong khi tọa thiền. Đức Phật đã khuyên răn ông điều gì? Phật dạy rằng khi cảm thấy buồn ngủ, hãy mở mắt ra, nhìn ngọn đèn, chà xát mặt, kéo tai, cử động thân mình để cho máu chạy đều, và nếu cần đứng dậy đi. Gì cũng được miễn là đừng có nằm xuống ngủ.
Đó là những cách thức bên ngoài để chữa trị bịnh buồn ngủ, nhưng ta cũng có những cách thức khác để dẫn tâm đi theo đúng hướng đã vạch như là quán tưởng về cuộc đời thì vô thường, sự chết thì bất ngờ. Đây là cơ hội tốt nhất để ta tham thiền. Ta có bạn đồng tu, có thầy dẫn dắt. Có đủ ăn, có nơi ở, thân không bịnh hoạn. Tất cả các thứ nầy không phải ai cũng có được. Chúng là kết quả của các căn lành của ta. Đó là phương cách giúp tâm ta tăng thêm nghị lực.
Hãy nhớ là không còn lúc nào khác hơn là lúc nầy. Tương lai dường như chắc chắn trước mặt nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Ta có thể chết bất cứ lúc nào. Khi ta chết -điều không ai tránh khỏi- và tái sinh, -ai cũng thế trừ khi ta là các vị A-la-hán- để bắt đầu trở lại tất cả. Ta phải học đi, học nói, ăn, mặc…Phải đi học trở lại, kết hôn, có con, gả con. Đó là tất cả những gì ta vẫn làm đi làm lại từ kiếp nầy qua kiếp khác. Vì thế, hãy dùng thời gian còn lại cho những gì quan trọng nhất. Ta đã trãi qua tất cả những thứ đó. Đã học đi, học nói, ăn mặc. Đã qua bao nhiêu trường học. Có con cái. Đã chứng kiến con mình thành lập gia đình. Vì thế, ngay bây giờ là thời điểm để đổi thay. Không có lúc nào tốt hơn lúc nầy.
Nếu ta dùng phương cách nầy để tăng thêm nghị lực cho tâm thiền định, thì nghị lực sẽ tự phát sinh. Giống như khi ta bật công-tắc điện lên, bóng đèn phát sáng, và một khi còn có dòng điện thì ngọn đèn còn sáng.
Tu tập thiền cần rất nhiều nghị lực. Thật là lạ khi ta ngồi (toạ thiền) hay đi chậm rãi (thiền hành) mà ta vẫn cần nhiều năng lực. Lý do tại sao ta cần nhiều năng lực vì tâm ta không ngừng làm việc. Nếu tâm không luôn phát khởi các vọng tưởng, hy vọng, ước nguyện, thì tâm đã không mệt nhọc chút nào. Không phải do các hoạt động của thân thể hằng ngày, mà tất cả chúng ta ai cũng mệt lả sau một ngày. Nhưng là vì tâm luôn hoạt động lăng xăng, luôn phán đoán. Tôi thích cái nầy, tôi không thích cái kia. Tôi phải có thứ nầy, tôi sẽ vứt thứ kia -chính những thứ đó làm mệt mỏi tâm trí ta. Vì thế người làm việc bằng đầu óc cũng mệt như hay hơn cả người trồng cây hay làm đường.
Khi ta có thể chú tâm, giữ tâm lắng đọng thì tâm được nghỉ ngơi. Nhưng trước khi ta có thể làm được như thế, ta vẫn còn phải dùng tâm để tự nhủ ta không được bỏ cuộc. Chịu thua trước các đòi hỏi bản năng là thói thường tình của nhân thế. Bản năng ta là muốn được thoải mái, dễ chịu. Trong khi Đức Phật nói rằng: “Thắng một vạn quân, không bằng thắng lòng mình”. Thắng lòng mình có nghĩa là không chịu thua trước các đòi hỏi của bản năng, không để tâm nghe theo những điều đó.
Muốn được ngồi yên tọa thiền phải có một lý do chính đáng nào đó để tâm có đủ nghị lực làm điều đó. Vì ước muốn được chứng ngộ, không phải là một lý do chính đáng. Lý do đó không đủ mạnh để giúp ta tu tập thiền, nhưng phần đông chúng ta đều tu thiền với mục đích đó. Do đó ta sẽ dễ bị thất vọng, vì được chứng ngộ không phải là điều dễ dàng đạt được. Lúc đó nghị lục để giúp ta thiền định sẽ biến mất vì ta không đạt được điều ta muốn, lúc đó việc thiền quán cũng là một thứ phiền não như bao thứ phiền não khác.
Thiền chỉ có một mục đích duy nhất là sửa soạn cho tâm thoát khỏi những đau khổ, chuẩn bị cho tâm được giải thoát. Đó là cứu cánh của phương tiện nầy, chứ không phải là để được chứng ngộ. Việc đó cũng sẻ xảy ra, tại sao không? Hãy cảm ơn rằng việc đó có thể xảy ra, và coi đó như một động lực giúp ta tiếp tục công việc của mình. Nhưng khi nó không xảy ra thì cũng chẳng làm sao. Điểm chính là tâm ta phải tu tập thiền để được giải thoát.
Đức Phật đã so sánh thụy miên, hôn trầm giống như ao hồ mà bùn đã nổi lên mặt. Mặt hồ đầy bùn thì ta không thể soi mặt vào, chỉ có bóng đen. Trong trạng thái tranh sáng tranh tối giữa ngủ/thức ta không thể có sự tỉnh thức. Ngay trong đời thường, khi tâm ta bắt đầu nói “Tôi chán ngấy. Khó khăn quá. Tôi không thể tiếp tục. Tôi không muôn làm nữa. Tại sao tôi phải làm chứ? Đâu có ai làm giống như tôi đâu”, đó là tâm đầy bùn, không có sự sáng suốt, không có một phương hướng rõ ràng cho chính mình.
Một phương hướng rõ ràng đem lại cho ta nghị lực cần thiết. Khi ta biết đường ta đi, nơi ta đến. Ta có thể hăng hái sấn bước. Khi ta không có đích đến, ta không có niềm say mê, hứng thú với điều gì. Thật khó tìm được một hướng đi đúng trong cuộc đời nầy, nhưng Đức Phật đã chỉ cho ta con đường mà Ngài đã chứng nghiệm, để đi đến sự tự do, đoạn diệt khổ đau, giải thoát, Niết bàn.
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch – Theo phattuvietnam.net
–>Bài nội dung liên quan: Năm Chướng Ngại Trong Tu Thiền
HN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét