Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2015

Truyện Cổ Phật Giáo: 7.- Không Thấy Được Gió Sao Thấy Niết bàn - 8.- Người mẹ - 9.- Người Cha - 10.- Người Con





7.- KHÔNG THẤY ĐƯỢC GIÓ SAO THẤY ĐƯỢC NIẾT BÀN

Một ngày nọ, đức vua Mi Lan Đà hỏi đại đức Na Tiên:

• Bạch ngài, cái chi sinh ra do thiện và ác, cái chi sinh ra do thời tiết, cái chi sinh ra do nhân?

• Tâu đại vương: tất cả loài hữu tình: chúng sinh liên tục tồn sinh trong tam giới đều do thiện ác cơ cấu cả. Đất, nước, gió, núi cao, biển rộng, sông dài thì do thời tiết nóng lạnh tạo thành.

Lửa, cây cỏ nhỏ lớn mọc rễ đâm chồi, nức mộng, sinh ngó có thể trồng được đều do nhân điều động.

• Bạch ngài, cái chi không chịu hệ thống của thiện ác thời tiết và nhân?

• Tâu đại vương. Niết Bàn và hư không, không chịu hệ thống các điều khoản trên. Ta không thể nói: Niết Bàn đã có hoặc sẽ có, có thể chấp lấy được, hoặc không được, là quá khứ, hiện tại, hoặc vị lai, là có thể hiểu biết được bằng mắt, mũi, tai, lưỡi, thân ý.

• Bạch ngài, nếu nói Niết Bàn không phải quá khứ, hiện tai, vị lai, đã có sẽ có, chấp lấy được hoặc chấp lấy không được, như thế có phải chăng là ngài nói những cái không có Niết Bàn?

• Tâu Đại Vương, Niết Bàn có thật sự song chúng ta không thể dùng những phương tiện trên mà thấy Niết Bàn. Tuy nhiên các bậc hiền minh có thể liễu ngộ được bằng Thánh Đạo Tâm. Bao giờ các bậc hiền minh thực hành theo Bát Chánh đạo thì sẽ rõ Niết Bàn.

• Bạch ngài, xin ngài thí dụ.

• Tâu Đại Vương, Đại Vương nhìn nhận có gió thật hay không?

• Bạch ngài có gió thật.

• Xin Đại Vương chỉ cho nhà sư xem với.

• Đã gọi là gió thì trẫm làm sao chỉ cho ngài được.

• Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương không thể chỉ cho nhà sư xem được thì hẳn là không có gió thật sao?

• Xin Đại Vương hiểu cho rằng Niết Bàn có thật sự, mặc dù nhà sư không thể chỉ cho Đại Vương thấy được.

• Bạch ngài, tất cả chúng sinh đều có thể liễu chứng được Niết Bàn như nhau chăng?

• Không thể được, vì chúng sinh không chịu hành trình theo con đường trung đạo (Majjimapatipadà) đồng nhau.

Đức vua hỏi tiếp:

• Sự dục tắt là Niết Bàn phải không?

• Tâu đại Vương, Đức Phật có thuyết cho thầy Tỳ Khưu Mahanama nghe như vầy:

• Này Mahanama bậc Thinh Văn sau khi đã thỏa mãn với Pháp bảo rồi các bậc ấy không còn ưa thích trong ngoại căn là: Mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và nội căn là nhãn thức, thiệt thức, vị thức, xúc thức của chính mình và của chúng sinh.

Khi các vị ấy không còn mắc dính trong ngoại căn và nội căn như thế rồi thì tâm hằng thanh tịnh, các ác pháp nhất là ái dục không còn phát sinh dù cho vi tế nhất thời. Một khi ái dục đã tắt lịm thì sự mê chấp rằng ta, thân của chính mình, của chúng sinh từ từ tắt theo. Khi sự mê chấp đã bị trừ khử thì hiện hữu sẽ không còn. Hiện hữu không còn thì sinh, lão, bệnh, tử, thương xa, ghét gần, sự thất vọng, sự bực bội nóng nảy trong tâm sẽ không còn. Vì cái gốc, nhánh, ngọn, lá, trái, đều khô héo và chết lần theo gốc. Tư cách dụt tắt như thế Như Lai gọi là Niết Bàn vậy.

Tiếng nói: “Giải Thoát” là sự giải thoát các phiền não đã phát sinh trong tâm, không còn dư sót: tức là sự liễu chứng được quả vị Niết Bàn.

Qua những câu chuyện trên ta nhận thấy việc cần thiết là hãy mạnh dạn học hỏi, và thực hiện pháp môn thiền định, chừng ấy ta sẽ tự thấy mình tiến được một bước dài trên con đường đi đến Niết Bàn vậy.

***


8. NGƯỜI MẸ

Nắng hồng đã bắt đầu tươi thắm trên muôn ngàn cây cỏ. Những tiếng chim ríu rít hòa lên khúc nhạc tưng bừng. Đàng xa, một dáng điệu oai nghiêm bệ vệ trong chiếc y vàng, hào quang sáng chói khoan thai lần bước với chiếc gậy trúc tẩm màu sương nắng. Đây chính là Đức Phật.

Như thường lệ, mỗi lần nắng lên Ngài đi khất thực, Ngài chỉ sống bằng những hạt cơm cúng dường của những tâm hồn mộ đạo, nhân đó để giáo hóa mọi người quay về đường Thiện. Đức Phật đến nhà ông Đế Đô, một nhà có tiếng giàu sang nhất, nhưng cũng không kém phần ích kỷ. Chủ nhà đi vắng, con chó nằm trước cửa, đôi mắt đỏ ngầu như phóng ra những tia lửa hung ác. Nanh nhe khỏi mồm như sẵn sàng một thứ khí giới trắng nhọn vô cùng ghê tởm. Nó gừ một hơi, rồi nhẩy chồm đến Ngài, theo một tiếng gầu dữ dội. Không chút sợ hãi, hay hoảng hốt, Ngài thản nhiên ôn tồn nói: “Ngươi hãy im”. Chó ta chỉ đưa mình lui để lấy thế rồi nhanh như chớp chồm lên cao. Rất dịu dàng, Ngài đưa tay đỡ hai chân trước chó âu yếm thốt ra những lời đầy thương hại: “Ngươi hãy bớt nóng, ta đã hiểu, ngươi chính là mẹ của chủ nhà này, kiếp trước ngươi hất hung ác tham lam, lâu đài nguy nga đây, tất cả châu báu đây chính ngươi đã xây dựng trên bao nhiêu mồ hôi nước mắt của mọi người, ngươi đã không chút từ tâm thẳng tay đục khoét tận xương tủy, từ những người giầu cho đến kẻ bần cùng, mãi đến giờ phút trước khi tắt thở, ngươi vẫn còn tâm địa độc ác và tiếc nuối những của cải nên ngươi đã bị sanh vào đường thú vật. Vậy hãy thức tỉnh mau lên mà sám hối cho tiêu tan nghiệp chướng...”

Kim ngôn của đức Thế Tôn đã vang vọng như tiếng Thần chung đánh thức chủng tử thiện tâm. Chó ta bỗng buông thỏng hai chân trước, cúi mặt lặng lẻ bước vào mái hiên nhà, đôi mắt rưng lệ tiếc nuối cho quãng đời chìm ngập trong màn vô minh đã qua. Từ đó, chó ta âm thầm nằm gục đầu sám hối không màng ăn uống, chỉ mong thoát khỏi nghiệp chướng lầm than.

Đế Đô về nhà, thấy thái độ chó thay đổi như thế và sau khi nghe gia nhân thuật lại tự sự, Đế Đô giận dữ đến Trúc Lâm Tịnh Xá chất vấn Phật. Rất dịu dàng, Đức Thích Ca dạy:

• Vì mẹ con ngươi nên ta mới nói cho ngươi rõ: tiền kiếp của chó chính là mẹ ngươi. Vì luyến tiếc của cải nên phải bị khổ sầu như thế. Ngươi không tin thì hãy về đào lên phía dưới giường nơi chó thường nằm sẽ thấy một lọ vàng. Lòng tham lam của Đế Đô đã dằn được cơn giận, vội vàng hỏi:

• Thật không ông? Sao ông biết?

Nhưng từ nét mặt sung sướng, ông ta trở thành đau đớn, vì đã có một nguồn tin bé nhỏ len vào trái tim ông. Quả nhiên khi bới lên một lọ đầy vàng, nhưng vàng ấy không còn gợi được lòng tham của Đế Đô. Nguồn tin đã hòa mạnh trong tâm tư, làm tiêu tan tất cả những tham luyến hung tàn.

Ông ôm lấy chó khóc nức nở, vô cùng ăn năn. Đoạn đến quỳ bên Đức Phật, đôi mắt đầm đìa dịu cảm, rung lên những lời cầu khẩn thiết tha xin sám hối tội lỗi và nhờ Phật chỉ phương cứu mẹ thoát khỏi kiếp đau khổ. Đức Phật từ bi bảo:

• Nay ngươi đã biết ăn năn, thế là ngươi có thể trở lại con đường lành, ngươi lại là một người con có hiếu. Nhưng nghiệp chướng của mẹ ngươi quá nặng, ngươi hãy thật tâm quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới và đem hết lòng thành kính sám hối cho mẹ ngươi. Đồng thời hãy đem tiền của bố thí cho mọi người, giúp đỡ mọi người qua từng cơn hoạn nạn, và nhất là nhân lễ tự tứ mà thành tâm cúng dường Tăng chúng, thiết cúng lễ Vu Lan để hồi phước báu về cho mẹ ngươi, nhờ công đức ấy mới mong cứu khổ cho mẹ ngươi được. Khổ hay sướng, thiên đàng hay địa ngục là do mình tự gây lấy, ta là người giác ngộ chỉ cho một con đường chân chính, còn đi hay không là do chúng sanh vậy. Ta không thể cứu vớt được với những kẻ ngoan cố mãi...

Đế Đô vâng lời Phật dạy, ngoài sự thỉnh cầu chư tăng chí nguyện còn đem gia sản bố thí cúng dường, làm các việc đại phước. Không lâu, một hôm chó duỗi mình khỏe khoắn trên tấm thảm rồi buông ra một hơi thở dài vĩnh biệt, nhưng không phải là hơi thở đầy luyến tiếc tham lam muốn bám víu lấy sự sống thường tình. Chó đã chết. Nhưng chó ấy (mẹ của Đế Đô) sẽ về đâu? Kiếp sau như thế nào?

Tối hôm sau... trong giấc mộng, Đế Đô thấy trên trời xanh cuộn lên những vầng mây trắng uốn dần đến trước mặt người, từ trong đó hiện ra một dáng người đàn bà hiền dịu ân cần vỗ nhẹ lên vai Đế Đô và nói:

• Từ lâu vì lỗi lầm, mẹ đã tham lam và độc ác quá nhiều, nên bị đưa vào những cảnh giới khổ sở đau đớn vô cùng. Chó ta hôm trước chính là mẹ đấy con. Con ơi, con nghĩ đến đời sống con chó, con sẽ hình dung được nỗi khổ của mẹ hồi ấy, nay nhờ Đức Phật cứu độ và lòng hiếu thảo của con, mẹ đã thoát khỏi kiếp đau thương, và được vãng sanh vào một thế giới đầy sung sướng an vui. Thật nhân quả không ai tránh khỏi “Gieo nhân gì, gặt quả ấy”. Tham lam, tàn ác sẽ bị lầm than, tu nhân tích đức sẽ được an vui tự tại, từ đây con hãy vâng lời Phật dạy gắng công tu học... thôi mẹ từ biệt con...”


***

9. NGƯỜI CHA

Thuở xưa tại thành Thất La Phiệt có một vị Bà La Môn rất giàu, ông có năm người con trai đã lập gia đình cả họ sống sung sướng trong cảnh hạnh phúc. Bỗng năm ấy vợ ông quá vãng. Ông muốn cưới vợ khác để coi sóc gia đình. Năm con dâu nghe thế bàn với chồng:

• Cha đã già rồi cưới vợ mà làm gì? để chúng tôi thay phiên nhau săn sóc cho cha có hơn không?

Thế là năm người con trai vào hầu cha thuật lại tự sự.

Ông cha bằng lòng chia của ra làm năm phần cho năm người con. Ông chỉ ở đậu để dâu nuôi dưỡng.

Tình ông già nàng dâu ban đầu còn tử tế sau lần lần phai lạt. Cả năm người con dâu bỏ ông không lo săn sóc, trái lại còn đuổi xô ông nữa. Ông không thể chịu nỗi tình cảnh ấy cùng cực ông phải đi xin ăn, thật là khổ sở. Ngày kia ông gặp người bạn cũ ông mới tự thuật hoàn cảnh của ông và xin người bạn tìm phương cứu giúp. Người bạn đáp:

• Tôi không biết phương thế nào cứu giúp bạn được. Vậy bạn hãy vào chùa Kỳ Viên để nhờ Đức Thế Tôn, Ngài có đủ khả năng cứu người cả vật chất và tinh thần.

Ông Bà La Môn ấy nghe lời vào hầu Phật và cầu xin Đức Phật chỉ phương pháp nào khỏi khổ về hoàn cảnh ông.

Đức Thế Tôn dạy ông:

• Tối rằm hãy đến nghe Pháp và sau thời Pháp phải làm như vầy... như vầy.

Đêm rằm, có nhiều tín đồ trong ấy cũng có con ông Bà La Môn và có cả đức vua Ba Tư Nặc ngự đến thỉnh pháp. Sau khi nghe pháp xong, tín đồ vừa đứng dậy ra về. Ông Bà La Môn đứng lên nói:

• Xin chư quý thiện nam tín nữ và Đàn na thí chủ hãy tạm dừng lại để cho lão bộc đôi lời. Có lẽ quý vị không quên già này, trước đây là một vị phú hộ trong thành Thất La Phiệt này. Hôm nay già phải đi ăn xin, thật ra già có con mà con của già không bằng cây gậy nầy, vì cây gậy này già chống đi ngừa lúc chân rung tay yếu, hoặc đuổi chó đánh mèo, nhưng con của già khi được chia của cho lại bỏ già đói lạnh xin ăn như thế nầy.Các tín đồ có mặt tại nơi ấy nhất là đức vua hỏi:

• Ai là con ông?

Ông chỉ năm người con ông đang có mặt tại đây. Đức vua và công chúng nổi giận muốn trừng trị ngay những người con bất hiếu kia. Nhưng những đứa con ấy biết ăn năn xin đem cha về nuôi dưỡng.

Khi đem cha về, mấy người vợ tỏ vẻ bất bình muốn xua đuổi lần nữa. Những người con trai mới nói:

• “Nếu các người không bằng lòng thì cứ tự tiện ra đi, riêng chúng tôi không đê hèn hơn cây gậy của cha chúng tôi được.”

Từ đó năm nàng dâu không dám nói nữa và người cha được phụng dưỡng đàng hoàng.

Tích trên đây chỉ cho chúng ta thấy rằng: Làm con không biết phụng dưỡng cha mẹ, hoặc phụng dưỡng một cách miễn cưỡng còn thua loài ăn cỏ. Và điều thứ hai là: Đức Thế Tôn chẳng những cứu người khỏi vòng luân hồi mà riêng về vật chất ngài cũng tìm phương tế độ. Chúng ta hãy noi theo gương Đức Thế Tôn đối với vua cha là Đức Tịnh Phạn Vương và Mẹ là Hoàng hậu Ma Da hết lòng hiếu thuận. Sau khi ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ngài ngự lên cõi trời Đao Lợi độ cho mẹ là Hoàng hậu Ma Da đắc quả Tu Đà Hườn, và về kinh đô Ca Tì La Vệ, độ cho vua cha là Tịnh Phạn đắc quả A La Hán và sau khi vua cha thăng hà tự tay ngài lo tẩn liệm và thân hành khiêng quan tài đến Trà Tỳ hỏa táng.

Đức Phật có dạy: Các bậc trí thức đều kính trọng những người biết phụng dưỡng cha mẹ, và người biết phụng dưỡng cha mẹ sẽ gặp nhiều sự an vui do nhờ quả của sự phụng thờ cha mẹ.


10. - NGƯỜI CON

Khi xưa có con Kên Kên rất hiếu thảo với cha mẹ. Vì cha mẹ già nên không thấy đường để đi kiếm ăn được, nên phải nhờ đến con đi kiếm mồi về nuôi, và vải đem về làm ổ cho ấm.

Bữa nọ Kên Kên con đi kiếm mồi, rủi mắc chân vào bẫy của một anh thợ săn. Anh thợ săn liền hỏi:

• Ta nghe nói loài Kên Kên mắt trông xa ngàn dặm, sao ngươi để cho mắc bẫy của ta?

Kên Kên con trả lời:

• Thưa ông, thật mắt tôi thấy xa, nhưng khi nghiệp nó đến rồi, không có tài lực nào mà ngăn nó được khiến cho mắt sáng thành ra vô dụng. Nay tôi sa vào lưới của ông, tôi đành chịu chết, không oán trách. Song tôi thương hại cha mẹ tôi mù lòa, già cả không ai nuôi dưỡng, rồi cũng phải chết, mà cái chết đáng thương là chết đói.

Anh thợ săn thấy Kên Kên con có hiếu với cha mẹ nên thương liền mở bẫy thả ra. Kên Kên con này là tiền thân của Đức Bổn Sư Thích Ca. Nếu con người không biết lo phụng dưỡng cha mẹ thì còn tệ hơn loài cầm thú kia vậy.

Người có hiếu thảo có thể làm cho những người dù hạng nào cũng quý mến được.

Pháp siêu Nguyễn Thanh Dương
Trích từ Chùa Hương sơn
Sưu tầm: Hanh Nghiêm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét