Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Lòng Tin Của Người Phật Tử




Trong bất kỳ sự nỗ lực nào của con người thì niềm tin đều đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Người thiếu niềm tin chân chính sẽ sống một cuộc đời vô vị, không có ý nghĩa và giá trị thiết thực để đóng góp lợi ích cho gia đình và xã hội.

Phật tử là những người tu theo Phật, bao gồm người xuất gia và cư sĩ tại gia. Vậy lòng tin của người Phật tử là gì? Là tin Tam bảo - ba ngôi quý báu, hiếm thấy, khó gặp ở đời vì sự nhiệm mầu của nó; là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng.

Phật là một con người giống như tất cả mọi người chúng ta; nhờ tu tập, chuyển hoá, buông xả, nên đã giác ngộ hoàn toàn, không còn phiền não tham-sân-si chi phối; tức tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

Pháp là những lời dạy vàng ngọc của Phật do Ngài tu chứng mà nói ra, được kiết tập trong Tam tạng kinh điển, hướng dẫn mọi người biết được điều hay lẽ phải, điều tốt lẽ xấu trong cuộc đời.

Tăng là những người đi theo con đường của Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người cùng tu theo, để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, không phải tìm kiếm bên ngoài và cầu cạnh nơi phương trời xa xôi nào đó.

Lòng tin này đối với tất cả mọi người là dễ tin hay khó tin? Dễ tin đối với người đã có nhận thức, hiểu biết chân chính; khó tin đối với người quá tham lam, si mê và ích kỷ. Lòng tin theo Phật giáo phải là chánh tín, tức niềm tin sau khi đã được cân nhắc, nghiệm xét, quán chiếu, hành trì, chuyển hoá nhờ phát sinh trí tuệ. Niềm tin mà thiếu sự hiểu biết chân chính tức tin mù, tin quáng, tin suông mà không có sự kiểm chứng, thể nghiệm về nó; như vậy chính là niềm tin mê tín. Vì thế, khi đã tin thì phải hiểu rõ về bản chất sự thật của nó và hiểu để củng cố, tăng trưởng thêm niềm tin là điều không thể thiếu đối với người Phật tử chân chính.

Trong bất kỳ sự nỗ lực nào của con người thì niềm tin đều đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Người thiếu niềm tin chân chính sẽ sống một cuộc đời vô vị, không có ý nghĩa và giá trị thiết thực để đóng góp lợi ích cho gia đình và xã hội. Niềm tin chân chánh đối với người Phật tử rất quan trọng và cần thiết, nên chúng ta cần phải suy nghĩ và thực tập cho được kết quả tốt đẹp.

Niềm tin là gì?

Từ khi loài người có mặt trên thế gian này, sống giữa trời đất bao la với hiểu biết và việc làm còn giới hạn, nên thường lo lắng và sợ hãi bởi những suy nghĩ cạn hẹp. Họ tưởng tượng ra có một đấng tối cao toàn quyền ban phước, giáng hoạ; nhìn đồi núi chập chùng, cao vót, họ tưởng ra vị thần núi; nhìn biển rộng bao la, mênh mông, họ nghĩ có vị thần biển đang cai trị ở đó, và vô số vị thần có nhiệm vụ cai quản muôn loài vật ở thế gian này. Đó là niềm tin của con người ở thời kỳ sơ khai, tin vào thế giới thần linh một cách tuyệt đối và chấp nhận giao phó số phận của mình, uỷ thác cho thần linh sắp đặt, định đoạt. Về sau, loài người chúng ta thật diễm phúc khi có được nhân duyên tốt đẹp gặp được Tam bảo, tức ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng trên cõi đời này. 

Đức Phật dạy rằng, niềm tin là mẹ sinh ra tất cả công đức lành, người không có niềm tin chân chính không tạo được công đức lâu dài. Do đó, chúng ta tin như thế nào là niềm tin chân chánh để không rơi vào si mê, cuồng tín. Ngài cũng tiếp thu những truyền thuyết đương thời trên nền tảng có suy xét, chọn lọc, bằng sự tu tập của chính mình để khám phá ra thế giới thần linh đúng như thật.

Niềm tin chân chánh được phát sinh sau khi có tu tập, chuyển hoá, nên khác với niềm tin mê muội, tà dại. Ngày xưa, người ta sợ trời đánh nên nghe tiếng sấm sét thì cho rằng có thần sấm sét. Người xưa vì phương tiện để răn dạy những đứa con bất hiếu, ngỗ nghịch, không nghe lời cha mẹ, nên nói rằng trời sẽ đánh kẻ bất hiếu, mục đích là để răn dạy con người sống tốt hơn, biết được đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Ngày nay, khoa học đã phát minh ra được nguyên nhân sấm sét, nên đã làm cột thu lôi ngăn chặn sét đánh; rõ ràng là chẳng có ông thần sấm sét nào cả hiện thân trên cõi đời này.

Đức Phật dạy rằng, niềm tin chân chánh là niềm tin có trí tuệ cân nhắc, soi sáng. Vì thế, đức Phật khuyên chúng ta đừng nghe những gì người khác nói dù đó là truyền thuyết có từ nhiều đời. Nghe điều gì ta cũng phải nên suy nghĩ, tìm tòi, xem sự việc đó có thiết thực, lợi ích hay không. Khi ta muốn tin điều gì mà không có trí tuệ suy xét, không chứng minh được nguồn gốc của nó, thì dễ rơi vào mê tín, dị đoan. Đức Phật cũng dạy chúng ta đừng vội tin những gì được nhiều người tin theo. Nếu họ là nhà trí thức có đời sống đạo đức, nhân cách cao thượng, được nhiều người quý mến, kính trọng, thì ta cũng phải suy xét cho kỹ càng giá trị, lợi ích của họ. Niềm tin của chúng ta căn cứ trên những tiêu chuẩn như vậy mới là niềm tin chân chánh.

Như chúng ta đã biết, niềm tin là mẹ sinh ra các công đức lành được trải nghiệm qua đời sống hiện thực, nếu không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm đáng tiếc vì niềm tin mù quáng. Từ đó ta cũng sẽ bị người lợi dụng niềm tin để làm các việc xấu ác. Khi niềm tin của chúng ta bị lợi dụng, chúng ta trở thành người cuồng tín, si mê, dại dột, nên mặc tình giết người vì nghĩ rằng sẽ được lên thiên đường hưởng phước báo tối cao. Phước đâu chẳng thấy, chỉ thấy mang tội giết người và bị tù tội hoặc tử hình, tạo ra bao mối nguy hiểm cho xã hội. 

Trong mối quan hệ giao tế giữa con người với con người, lòng tin tạo nên sự gắn bó thân thiết trong sự liên quan các mối giao dịch làm ăn và củng cố uy tín cho chính mình đối với cộng đồng xã hội. Trong suốt quá trình xây dựng lòng tin đối với mọi người, chính chúng ta cần phải có sự kiên nhẫn và thành thật. Trong sinh hoạt gia đình, sự thương yêu, đùm bọc, sẻ chia cho nhau đều bắt đầu từ lòng tin giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, người thân và láng giềng. Lòng tin như một chất keo luôn gắn bó con người với con người, và là một chất liệu kết nối yêu thương để chúng ta thêm gắn bó và cảm thông với nhau lâu dài.

Ðức Phật dạy, tin là căn bản của sự thành công và là nguồn gốc để phát sinh muôn hạnh lành; nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, bốc đồng, mà không có suy xét, kiểm chứng qua sự thực hành. Ðức Phật đã từng nói, “ta chỉ là vị thầy dẫn đường giúp cho mọi người đi đến con đường bình yên, hạnh phúc; ta không phải là một vị thần linh hay một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng hoạ”. Người Phật tử tin Ngài là một con người giác ngộ và chúng ta cũng là một con người, ai quyết tâm và kiên trì, bền bỉ thì sẽ biết cách chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Do đó, sự thành công của chúng ta không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của mỗi con người, có thể làm cho chúng ta ỷ lại, lười biếng, mà dang tay chờ đợi những giáo điều ngu ngơ, huyền hoặc.

Một đức tin hỗn tạp, thiếu căn cứ đều phát xuất từ lòng tham lam của con người thường tin tưởng, nương nhờ vào một thế lực không có căn cứ rõ ràng. Ðạo Phật truyền vào Việt Nam đã trên 2.000 năm, có những thời rực rỡ, huy hoàng, chói sáng, nhờ vào sự sáng suốt của các nhà vua như thời Lý, Trần; và cũng có những lúc lu mờ, tối tăm, bởi những ông vua đam mê hưởng thụ quá mức chỉ biết cho riêng mình. Con người sống tốt và có ý thức, hay suy thoái đạo đức là do niềm tin không chân chính làm xáo trộn bởi sự hiểu biết sai lầm. 

Một lòng tin chân chính phải đi theo với sự tìm tòi bằng sự quán chiếu, xem xét, hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tín. Ðối với những ai tu theo đạo Phật tin mà không hiểu rõ ràng thì sẽ dễ lầm đường, lạc lối, tạo sự mất tin tưởng cho người khác. Ðức Phật là một người dẫn đường trong đám người lạc hướng, Ngài đã tốn rất nhiều công sức mới khám phá ra chân lý cuộc đời. Chúng ta ngày nay được thừa hưởng lời Phật dạy mà khỏi phải mất công tìm tòi cực nhọc, vất vã, vì đã có sẵn trên tay tấm bản đồ. Ví như 6 người cùng đi rừng đều khác nước, một người chỉ bỏ công ra tìm nước, khi uống thì 6 người đều hết khát; nhưng người đi tìm nước phải chịu vất vã, cực khổ. Chúng ta bây giờ cũng vậy, ta khỏi phải tốn thời gian, mất công, tổn sức, mà chỉ cần đi theo tấm bản đồ đã hướng dẫn sẵn là có thể đến đích; như người có bệnh được vị lương y cho thuốc nhưng sợ đắng nên không uống, bệnh không lành là do lỗi người bệnh, không phải lỗi do thầy thuốc. Nếu Phật Tử không hiểu lời Phật dạy, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì Ðức Phật và Tam tạng giáo điển đối với chúng ta không còn ý nghĩa gì nữa hết.

Đạo Phật là đạo của con người vì sự giác ngộ của chính mình và giúp cho nhân loại cùng giác ngộ, giải thoát. Mọi sự mê tín dị đoan, thần quyền đều không có trong đạo Phật; nhưng tại sao rải rác trong các bản kinh lại có nêu ra các vị thần, như Thiên thần, Lâm thần, Thọ thần, Quỷ thần, điều này có ý nghĩa và mục đích gì? Kinh điển Phật giáo tiêu biểu như Kinh Địa Tạng cũng nêu ra rất nhiều loại Quỷ thần, nhằm nói lên nghiệp cảm sai biệt của mỗi chúng sanh trong thế giới lục đạo luân hồi. Đạo Phật không chấp nhận có Quỷ thần ban phước giáng hoạ, điều khiển, sai khiến mọi người bằng một quyền năng vô hình như các truyền thuyết khác. Thế gian này với thiên hình, vạn trạng, vô số chúng sinh đủ loại màu sắc, hình dạng; sự sai biệt đó là do tạo nghiệp bất đồng mà thọ nhận quả báo tốt hay xấu; có loài sống dưới nước như tôm, cá, lươn, cua…; có loài sống trên không như chư Thiên; có loài sống ở đất liền như loài người và các loài động vật, thực vật khác; như thế, Quỷ thần cũng là một loại chúng sanh như vô số chúng sanh khác trong bầu vũ trụ bao la này.

Kinh Phật còn cho chúng ta biết thêm về thế giới quan, có chúng sanh hữu tình, chúng sanh vô tình, có loài hữu hình, hữu tướng, có loài vô hình, vô tướng. Tất cả đều tùy theo căn thức và nghiệp cảm mà có ra vô số sự sai khác, không có một chúng sanh nào cai quản chúng sanh nào mà tuỳ theo nhân tốt xấu để cho ra kết quả tương xứng trong hiện tại. Chính vì vậy, Đức Phật không bao giờ khuyên dạy bất cứ ai cầu khẩn, van xin nơi Quỷ thần vì Quỷ thần cũng chỉ là một chúng sanh và đang chịu sự chi phối, vận hành của quy luật nhân quả.

Tóm lại, giáo lý nhà Phật có nói đến các loại Quỷ thần như là một chúng sanh bị nghiệp cảm thọ báo mang hình hài, nghiệp thức trong loài đó. Phật giáo không chấp nhận có một đấng quyền năng ban phước, giáng hoạ dù là Nhất thần hay Đa thần giáo. Ðôi khi, người Phật tử chỉ biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó để cầu nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình yên hạnh phúc mà không chịu tìm hiểu rõ nguyên nhân thật giả, không chịu tìm hiểu cho chánh đáng, không chịu học hỏi bằng tâm chân chính; nên một số người lợi dụng chỗ yếu kém đó từ sự mê tín dị đoan, tin mà không hiểu, nên dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến; hậu quả khó lường trước được.

Thế gian này là một chuỗi dài phiền muộn, khổ đau nhiều hơn là bình yên, hạnh phúc. Cho nên, nhận định cuộc đời "khổ nhiều vui ít" là một sự thực rõ ràng, nhưng ít ai dám mạnh dạn nhìn nhận. Con người do bộn bề công việc vì mải mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống hằng ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu, nghiệm xét. Khi gặp hoàn cảnh khổ đau hay những điều bất như ý, con người chỉ biết oán trời trách đất, đổ thừa xã hội bất công hoặc trách cứ ông bà cha mẹ ăn ở bất nhơn thất đức, nên con cháu bây giờ mới ra nông nổi này.

Lòng tin của chúng ta phải có cơ sở, mà cơ sở đó được trải nghiệm qua sự quán chiếu, tìm tòi. Chính sự quán chiếu đó làm cho ta tăng trưởng thêm sự nhận thức đúng đắn, nhờ vậy trong đời sống ta bớt âu lo, căng thẳng hay phiền muộn, khổ đau. Chúng ta tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những phút giây làm việc để phục cho tha nhân và không phải bận tâm lo lắng nhiều đến kết quả của nó. Lòng tin khi phát sinh trí tuệ đã giúp chúng ta giải thoát được “cái tôi” dính mắc, cố chấp vào sự hiện hữu của nó. 

Tuy nhiên, ai trong chúng ta cũng đều phải hiểu rằng, không phải lúc nào mọi việc cũng đều thuận lợi như ta mong muốn bởi sự thay đổi bất thường trong cuộc sống. Để củng cố lòng tin, chúng ta cần phải sống có ý chí, kiên trì, bền bỉ và thành thật. Khi gặp những chỉ trích, phê phán ngược lại lòng tin của mình, ta vẫn bình thản, an nhiên mà không bị họ làm lung lạc.

Như thời đức Phật còn tại thế, Ngài rất thận trọng khi nói đến lòng tin. Trong kinh Nền Tảng Đức Tin, khi dân chúng Kalama hỏi đức Phật việc phải tin theo ai trong số các bậc đạo sư thường đến giảng dạy tại làng họ, Ngài đã chỉ cho họ cách để bảo vệ và phát triển lòng tin: “Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm; chỉ khi nào sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài, thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”.

Chính chúng ta trải nghiệm, kinh qua để thấy lòng tin của mình được củng cố ra sao, vì giá trị vô giá của lòng tin ta không thể xem nhẹ những trải nghiệm tự thân cần thiết này. Chúng đích thực là chất liệu, là năng lực giúp mọi người duy trì để sống đời bình yên và hạnh phúc. Chúng ta hãy tìm hiểu lại cuộc đời của đức Phật trước và sau khi Ngài thành đạo bằng đôi mắt thiền quán của chính mình để có thể thấy được giá trị của lời dạy chân chính ấy. Là Phật tử, tất cả chúng ta đều biết rằng trước khi Phật thành đạo, Ngài có làm gì đâu, Ngài chỉ ngồi lặng yên nơi cội Bồ đề để chuyển hoá những tâm tư vọng động, hư dối, thế mà Thiên ma vẫn tìm đủ mọi cách để quấy phá sự thành đạo của Ngài.

Ngài đã thành tựu dưới cội Bồ đề nhờ biết cách buông xả, cho đến khi Ngài thành đạo rồi nhưng chưa có ý định đi giáo hoá thì Thiên ma lại yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn. Trong suốt 49 năm hoằng hoá độ sinh, Thiên ma luôn luôn đi theo đức Phật và tìm đủ mọi cách để khiến Ngài sớm nhập Niết Bàn. Cuối cùng, khi Ngài đến xứ Câu Thi La, đức Phật nói với Tôn giả A Nan là Ngài dự định 3 tháng nữa sẽ nhập Niết Bàn tại đây. Sau khi đức Thế Tôn tuyên bố buông bỏ thọ mạng, đến lúc đó, ngài A Nan mới nhận ra và vội vã đến thỉnh Phật tiếp tục trụ thế; nhưng Phật dạy: ”Như Lai đã nói là làm, Như Lai đã tuyên bố buông bỏ thọ mạng. Bây giờ đã có đủ 4 chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có giới luật rồi, có pháp của Như Lai rồi, đã đến lúc Như Lai nhập Niết Bàn!”

KHI TA CÓ NIỀM TIN 

Nếu chúng ta không biết tu thì có thể mình sẽ đụng chạm nhiều tới mọi người, bởi thế gian này luôn tranh giành, sát phạt lẫn nhau; nhưng khi chúng ta có tu, quý vị dám bảo đảm là mình sẽ không đụng chạm gì đến thế nhân hay không? Khi mình tin Phật thì sẽ làm cho các loài ma rất lấy làm khó chịu, bởi chúng mất đi một bạn đồng minh và làm những người theo ma cũng ghét lây. Chúng ta thấy rõ ràng giữa đời này ma nhiều vô số kể, chúng ta chỉ tin Phật thôi là đã đụng chạm đến nhiều người lắm rồi; nhưng ma ở đây là gì? Ma là những gì làm hại cho người và vật. Mình tin pháp Phật là những lời dạy chân chính thì sẽ đụng đến các tà thuyết bất chính làm mê hoặc lòng người. Vì thế, mình nói đúng Chánh pháp và thực hành đúng Chánh pháp là đã đụng đến các người tuyên truyền tà thuyết và mê tín dị đoan để làm mờ mắt thiên hạ. Chúng ta tin Tăng thì sẽ đụng chạm tới những người nào? Tới các thầy tà, bạn ác. Ta nếu thật sự chỉ biết đi chùa tụng kinh, lễ Phật, làm công quả, ngồi thiền và buông xả các tạp niệm xấu ác thì ta đâu có thời gian để đi nói xấu người này người kia, ấy thế mà vẫn đụng chạm tới họ.

Chúng ta tin giới pháp của Phật và áp dụng tu hành là đã đụng chạm tới những sinh hoạt phi đạo đức, gây ra các tệ nạn xã hội, làm khổ đau cho nhân loại. Cho nên, việc mình thực hiện niềm tin đối với Tam bảo thôi là mình đã đụng tới tất cả những người không có niềm tin đối với Tam bảo rồi. Người đời vì không hiểu nên thích giết hại sinh vật để ăn, tranh giành nhau để sống, tàn hại, huỷ hoại người khác để mưu cầu lợi ích cho riêng mình; còn chúng ta, khi đã tin Phật rồi thì lại không thích tàn hại bất cứ một ai, hay dẫm đạp lên bất cứ loài vật nào để tồn sinh, vì đó là nhân dẫn đến ân oán, hận thù, làm khổ đau cho nhau. Đa số đều cho rằng giết vật để bảo tồn sự sống là do thượng đế tạo ra để phục vụ cho con người, nên họ công khai giết và còn khuyến khích nhiều người khác giết. Chúng ta không giết mà còn khuyên nhủ mọi người phóng sinh, thế là đụng chạm lớn đến họ. Thế thì cuộc sống này bắt buộc phải có đụng chạm, ta không thích đụng chạm nhưng vẫn cứ đụng chạm hoài.

Chúng ta ưa tôn trọng công bằng, lẽ phải, muốn sự sống này đều được bình đẳng để ta cùng san sẻ cho nhau nhưng đâu có được, vì có những người luôn lợi dụng quyền cao chức trọng để bóc lột. Chúng ta hãy nên nhớ, cái gì làm được giúp ích cho mọi người thì cứ làm, còn điều gì có hại thì thôi. Trong nhà Phật có nói, mong muốn mà không được như ý là khổ, bởi vì sao? Vì chúng ta thấy cái đó được lợi ích cho mình nhưng bất lợi cho người khác nên mới có giới không gian tham, trộm cướp. Tiền bạc tài sản do công sức mình làm ra phải tiết kiệm lắm mới dư chút đỉnh, giờ lại bị kẻ khác lấy đi thì ai chẳng buồn khổ, vậy mà vẫn có một số người vì lười biếng, ham hưởng thụ nhiều, hoặc kẽ có chức quyền đã bớt sén của người khác; thế là cuộc sống phải chịu đụng chạm, cọ xát lung tung mà thôi. Người khôn ngoan, sáng suốt biết tạo nhân lành thì ít bị tai hoạ, còn số đông phải chịu nhiều đau khổ do không có hiểu biết chân chính.

Phật hay khuyên nhủ chúng ta hãy nên sống tiết hạnh, thuỷ chung một vợ một chồng, nhưng những người có thói quen đuổi bướm bắt hoa thì lại thích mua bán dâm, chỉ đơn giản vậy thôi thì những người kinh doanh về mặt này trong xã hội đã ghét mình lắm rồi.

Người đệ tử Phật chỉ thích nói lời chân thật, nói đúng chân lý, không nói dối để lừa gạt người khác; nhưng hễ nói lời ngay thẳng thì sẽ đụng kẻ điêu ngoa, xảo trá, hễ nói sự thật thì sẽ đụng chạm đến người nói dóc, nói láo. Là người Phật tử chân chính, ai lại đi nói dối để lừa gạt người khác phải không quý vị, chỉ cần mình nói thiệt thôi là đã đụng đến người ta rồi, thà mích lòng trước đặng lòng sau còn hơn là sống trên sự giả dối, lừa đảo lẫn nhau.

Rượu thuốc, xì ke, ma tuý tác hại đến chừng nào, nhưng thế gian lại tiêm nhiễm nặng những thứ ấy, gây bệnh hoạn, làm mất an ninh, trật tự, bạo lực gia đình, rồi dẫn đến hiếp dâm, trộm cướp, lừa đảo, làm gia đình chia ly, tan nhà nát cửa, và cuối cùng là tù tội. Chúng ta đâu có muốn như vậy mà vẫn bị nhiều người phê phán, chỉ trích kẻ đó ngu, không biết hưởng thụ gì hết. Mình đâu có giành bia ôm, rượu thịt của họ mà ăn nhưng vẫn cứ bị đụng hoài.

Cho nên, quý vị thấy, mình thật tu thì cũng bị đụng chạm tới những người không chịu tu, vậy hỏi làm sao để thế gian này thật sự được hoà hợp, hài hoà. Không thể có chuyện đó được, ai biết khôn thì nhờ, ai ngu thì phải chịu khổ đau đời đời kiếp thôi. Bởi vậy mà Thiên ma ba tuần đã tìm mọi cách để ngăn Phật thành đạo, nên nó tìm cách quấy nhiễu đủ thứ nhưng không làm gì được Phật. Tại sao? Vì Phật dùng cây cung Thiền định và cây kiếm trí tuệ để quét sạch chúng ma. Đến khi thành Phật rồi, Thiên ma lại muốn Ngài nhập Niết Bàn sớm để họ được tự tung, tự tác giữa cuộc đời làm nhiễu loạn mọi người, để tất cả đều phải là ma hết. Bởi vậy, người tu theo Phật là đụng chạm tới sự tham lam của ma mị. Mình muốn cùng dìu dắt họ đi lên để chuyển hoá cõi ma thành cõi Phật, nhưng chúng có chịu đâu, chúng cứ níu kéo lẫn nhau bày đủ mọi trò để kích thích lòng tham lam của con người.

Cho nên, sống giữa cuộc đời, người biết gìn giữ giới đức để không bị rơi vào hố sâu của tội lỗi rất là khó. Chúng ta phải can đảm, mạnh dạn, quyết tâm lắm mới có thể vượt qua nổi vì chúng ma đông vô số. Không tu thì đụng đâu chửi đó, đánh đấm, mạ luỵ lẫn nhau, đụng chạm liên miên không có ngày thôi dứt. Người có tu thì khéo sắp xếp hơn nên tuy có đụng chạm cũng không đáng kể; nhờ đâu mà được như vậy? Vì mình có sự kham nhẫn, sức chịu đựng trong suốt quá trình tu học để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Chúng ta hay nghĩ rằng, mình tu rồi thì ai cũng thương, ai cũng kính, ai cũng mến và ai cũng tạo điều kiện thuận lợi cho mình hết. Không có chuyện đó đâu quý vị, chúng ta đừng có ảo tưởng mộng mơ như vậy. Ta càng tu thì càng bị nhiều người khảo hạch, chống đối; ví như muốn biết mình không còn nóng giận nữa thì bị người trách mắng, đánh chửi, coi ta có động tâm hay không. Hiểu được như vậy, chúng ta mới cố gắng, kiên trì, bền bỉ trong từng phút giây để có cơ hội sống được trọn vẹn với niềm tin của mình trên bước đường tu tập, chuyển hoá. Thật ra, cuộc đời rất đẹp và trong sáng biết bao, chỉ có tâm ma con người tạo ra quẩn khúc của cuộc đời. Ta không hiểu nên hay đổ thừa cho cuộc đời, tại sao mình không oán trách mình nhiều hơn, mình tạo ra thì mình phải gánh chịu, đâu có ai ban phước, giáng hoạ cho mình.

Thường người thế gian hướng về Phật pháp rất ít vì bị bộn bề công việc, cơm áo gạo tiền, không có thời gian tìm hiểu, tạo dựng niềm tin cuộc sống cho chính mình, nên đa số rơi vào lầm lạc, khổ đau. Phật thấy rõ sự tác hại của nó nên vì lòng từ bi mà khuyên nhủ mọi người hãy sống có ý thức và trách nhiệm, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì tình người trong cuộc sống. Ngày xưa, khi con người chưa văn minh tiến bộ nên thấy dường như có đấng quyền năng sắp đặt, định đoạt số phận muôn loài vật. Nhiều người thiếu hiểu biết do không suy xét, trải nghiệm mà rơi vào tình trạng si mê, cuồng tín. Ngày nay, loại cuồng tín này cũng có phần suy giảm do sự tiến bộ của con người, nhưng mê tín dị đoan thì còn quá nhiều.

Chúng ta có niềm tin chân chính sau khi có sự thẩm xét bằng trí tuệ của mình; nhờ vậy, niềm tin chân chánh không phải nhắm mắt tin càn, ai bảo gì làm đó mà không có sự kiểm tra, cân nhắc. Chúng ta thấy lòng thương người của Đức Phật khi chưa tu đã thể hiện rõ trong cuộc sống của Ngài. Khi thấy Đề Bà Ðạt Ða bắn chim bị thương, thái tử đã cảm nhận niềm đau của nó như nỗi đau của chính mình, Ngài vội vàng cứu chữa cho con chim lành mạnh và trả nó về thế giới tự do bao la. Ngài đã có tình thương vô điều kiện ngay khi chưa thành Phật, Ngài không đòi hỏi gì ở ta, không buộc ta làm gì cho Ngài mà chỉ sẵn sàng giúp ta, cho chúng ta sự bình an để sống, để vượt qua nỗi khổ, niềm đau.

Niềm tin như một lý tưởng sống thì ta mới có quyết tâm theo đuổi mục tiêu này hay mục tiêu khác, mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Trái lại, người không có đủ niềm tin chân chính thì không có hướng đi và một tương lai tốt đẹp. Niềm tin càng vững chắc thì bước đi càng rộng mở, không có gì ngăn cản nỗi và ý chí nỗ lực càng lớn mạnh. Vì vậy mà con người cần phải nuôi dưỡng và xây dựng niềm tin về con người tâm linh, là tin chính mình có khả năng làm được tất cả mọi điều thiện lành, tốt đẹp. Trong cuộc sống, Đức Phật luôn nhấn mạnh về lòng tin sau khi có trí tuệ, xem đó là động lực thúc đẩy mọi sự tiến bộ của con người trong suốt quá trình tu tập và chuyển hoá hướng đến mục tiêu giác ngộ, giải thoát cùng lợi ích cho nhân loại.

Như vậy, theo sự chỉ dạy của Đức Phật thì niềm tin là điều tối cần thiết cho việc phát huy các phẩm chất đạo đức nhờ chúng ta có tâm thanh tịnh, sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi con người. Vậy niềm tin của người Phật tử là gì? Nói chung, niềm tin chân chính rất quan trọng và tối cần thiết trong đời sống con người, nếu niềm tin không đúng chân lý sẽ dẫn chúng ta rơi vào mê tín dị đoan, hoặc tin sau khi chết là hết làm cho nhân loại dễ dàng rơi vào hố sâu tội lỗi. Cho nên, trước khi tin bất cứ điều gì, ta phải cần xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng, coi lời dạy của học thuyết đó có gì lợi ích cho nhân loại không, hay chỉ là mục đích nhằm phục vụ cho riêng mình. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính phải tìm hiểu kỹ càng khi tin một điều gì và nhận ra tính chất của nó là thiện hay ác, chỉ khi nào ta biết chắc nó mang lại lợi ích cho nhân loại thì ta mới quyết định nên tin hay không. Đây là cách thức xây dựng niềm tin của người Phật tử chân chính. 

Như bài kinh người Kalama đến tìm Phật và hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, có rất nhiều vị đạo sư đã đến thăm chúng con, người nào cũng tuyên truyền rằng đạo của họ là chân lý. Kính bạch Ngài, chúng con không biết lời chỉ dạy của ai là đúng để tin theo và áp dụng hành trì”. Phật không trả lời ngay câu hỏi mà hỏi lại họ: “sát sinh hại vật có từ bi hay không?” - “dạ thưa không” - “gian tham, trộm cướp, lường gạt của người có từ bi hay không?” - “dạ thưa không” – “uống rượu say sưa làm não hại thân tâm có từ bi hay không?” – “dạ thưa không”. Đức Phật của chúng ta rất khéo léo dẫn dụ, buộc mọi người phải cân nhắc, suy nghĩ, bởi Ngài đang khuyên mọi người không nên làm thế.

Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán, hiểu rồi mới tin thì cái tin ấy mới là chánh tín. Ðối với đạo Phật, tin Phật mà không hiểu Phật tức là phỉ báng Phật, như thế dễ dàng rơi vào đường tà. Đạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả và tin hay không là tùy ở nhận xét của chính mình; cũng đừng vội tin những gì người ta thường lặp đi, lặp lại; đừng vội tin một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại; đừng vội tin một điều gì dù đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến; đừng vội tin một điều gì dù điều đó do bút tích Thánh nhân xưa để lại; đừng vội tin một điều gì dù đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem là chánh đáng; đừng vội tin một điều gì dù điều đó do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu về niềm tin trong kinh Kalama. 

(còn tiếp)

Thích Đạt Ma Phổ Giác
Sưu tầm: Hanh Nghiêm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét