Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Lòng Tin Của Người Phật Tử (tiếp theo 3)- Tin Lời Phật Dạy Là Chân Chính

 


TIN LỜI PHẬT DẠY LÀ CHÂN CHÍNH

Ta tin những lời dạy vàng ngọc của Phật, tức là ta thực hành lý nhân quả-luân hồi-nhân duyên để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Muốn được quả tốt thì ta phải tạo nhân tốt và những duyên phụ thuộc cũng phải tốt mới được. Từ lý nhân quả này, chúng ta xét thấy mọi việc trên thế gian không có gì xảy ra bỗng dưng khi không mà có được. Chúng ta phải đi từ nhân tới quả bằng sự quán chiếu và nghiệm xét. Nhân mình làm tốt thì quả tốt, nhân mình làm xấu thì quả xấu. Biết được nhân quả phù hợp với đạo lý làm người rồi, chúng ta phải quyết tâm cố gắng ngăn ngừa từ nhân, không cho nhân xấu phát sinh. Ta đã không tạo nhân xấu mà biết tìm cách phát huy tạo nhân tốt, đó là người Phật tử chân chính. Như chúng ta thường thấy, “gieo nhân thì gặt quả” như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Người làm nghề nông chọn lựa giống tốt, chuẩn bị cày bừa thì phải làm sạch cỏ dại, rồi mới phân nước đầy đủ, chờ khi thời tiết thuận lợi mới có thể gieo giống. Bởi giống tốt và siêng năng chăm sóc đúng kỹ thuật nên cây lúa tốt tươi, bông lúa nặng trĩu, nhiều hạt, và cuối cùng là thu hoạch một mùa bội thu.

Như có anh nông dân kia sau thời cuốc ruộng mệt nhọc, anh vào ngồi nghỉ dưới gốc cây, vô tình có một con thỏ bị con thú lớn rượt đuổi nên hoảng hồn chạy thụt mạng, đâm sầm vào gốc cây chết liền tại chỗ. Anh nông dân mừng quá, nghĩ rằng từ nay về sau khỏi cần làm ruộng, cứ mỗi ngày ra đây ngồi chờ con thỏ đến nộp mạng. Đây là quan niệm của những kẻ lười biếng muốn ăn không ngồi rồi mà hưởng thụ. Họ nghĩ rằng tất cả đều là ngẫu nhiên khi không nên sinh ra tư tưởng không muốn làm mà muốn có ăn; như anh chàng nông dân kia thay vì tin sâu nhân quả, muốn trúng mùa lúa bội thu thì trước tiên phải lựa giống tốt, sau đó cuốc ruộng, phơi đất, vô nước, bón phân, chăm sóc theo quy trình kỹ thuật làm ruộng, cộng với thời tiết, nhân duyên thuận lợi thì chắc chắn sẽ trúng mùa. Nếu chúng ta cứ mỗi ngày ra ngoài bờ ruộng, chắp tay nguyện Phật trời cho con mùa này trúng lúa mà không chịu làm gì hết như anh nông dân trên thì thật là điều vô lý hết sức. Ta không chịu gieo giống, tạo nhân duyên đầy đủ về mọi phương diện mà đòi có quả trọn vẹn, tốt đẹp thì không bao giờ có được. Đó là lẽ thật. Người thông minh, sáng suốt biết siêng năng, cần cù trong mọi công việc, biết chọn nhân tốt để gầy dựng tương lai và sự nghiệp cho gia đình được kết quả trọn vẹn trong hiện tại và mai sau. Ngược lại, người không biết tu tạo phước đức, thường hay tạo nhân xấu ác thì quả xấu sẽ đến như người trộm cướp sẽ bị bắt và chịu tù tội. Tất cả quý Phật tử khi nghe lời Phật dạy đã hiểu rồi thì ráng cố gắng chọn lựa nhân tốt để làm, nhân xấu loại ra, bất cứ làm việc gì chúng ta cũng lấy nhân quả làm nền tảng thì lợi ích vô cùng.

Thế gian có nhiều người gây nhân mà không dám chịu quả; như trong nhà có nhiều anh chị em mà ta lỡ tay làm bể cái chén quý của mẹ, do không dám nhận lỗi nên khi cha mẹ tra hỏi ta đổ thừa không biết. Cuối cùng, mẹ phải bắt tất cả anh chị em trong nhà ra điều tra, mấy đứa kia đâu có làm bể nên chúng nói không biết. Mẹ giận quá phải đánh đòn hết để điều tra ra sự việc coi ai làm bể. Chúng ta đã lỡ tạo nhân thì phải can đảm chịu quả, nhận lỗi lầm về mình do sơ xót làm bể, “dạ thưa mẹ, đây là lỗi của con, con lỡ như vậy, xin mẹ thương mà tha thứ bỏ qua cho con”. Ta biết nhận lỗi như vậy thì mẹ nào lại chẳng thương yêu, tha thứ. Ta khỏi làm phiền hà khiến anh chị em bị đòn oan. Thế cho nên, người biết tin sâu nhân quả và dám chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình là người sống có nhân cách và phẩm chất đạo đức tốt. Người nào không tin nhân quả là người yếu đuối, hèn nhát, không có hiểu biết và nhận thức đúng đắn, nên sống càn, sống dở, làm tổn hại cho gia đình, người thân và xã hội.

Kế đến ta tin con người sau khi chết không phải là hết mà chỉ thay hình, đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân gieo tạo tốt-xấu của mình. Ta tin có tái sinh, luân hồi thì càng làm mình thêm dè dặt hơn để trong đời sống như thế nào cho phải đạo làm người; bởi ai cũng muốn đời sống sau được bình yên, hạnh phúc, có tất cả tiền tài, danh vọng, nên phải giữ gìn 5 điều đạo đức, là chuẩn mực thước đo lòng người trong hiện tại và mai sau: Không sát sanh hại vật; không gian tham trộm cướp, lường gạt của ai; không tà dâm phi pháp; không nói dối hại người; không uống rượu say và hút chích xì ke, ma túy. Ai giữ được 5 điều trên thì bảo đảm đời sau được sinh trở lại làm người có nhân cách và phẩm chất tốt đẹp. Chúng ta tu để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành được an vui, hạnh phúc, làm tròn trách nhiệm bộn phận đối với gia đình, người thân và phục vụ lợi ích cho xã hội. Người không sát sanh hại vật thì đời sau sống thọ và ít bị bệnh hoạn. Người không gian tham trộm cướp thì đời sau không bị ai lấy cắp, lường gạt. Người không tà dâm thì đời sau sẽ đẹp đẽ, đoan chính, trang nghiêm, ai thấy cũng mến thương. Người không nói dối hại người thì đời sau nói năng lưu loát, nói ra mọi người đều tin theo, không bị ai nghi ngờ. Người không uống rượu say, không hút chích xì ke, ma túy thì đời sau sanh ra thông minh, sáng suốt, trí tuệ đầy đủ. Như chúng ta đã thấy, chỉ cần tin sâu nhân quả và giữ giới đầy đủ, trọn vẹn thì ta sẽ có một tương lai tốt đẹp mà khỏi cần phải cầu khẩn, van xin một ai. Những ai không tin sâu nhân quả và kiếp luân hồi tái sinh thì đâu có biết tu, nên đời sau họ sẽ đau khổ, lầm mê.

Một người biết giữ gìn 5 giới và tất cả mọi người đều giữ giới thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc, làm gì có chiến tranh, binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau. Nhà nào có người bị vướng vào tệ nạn xã hội thì trộm cướp hoặc rượu chè be bét, hút chích xì ke, ma túy thì đó là họa lớn làm tổn hại cho mình và người. Cho nên, người Phật tử chân chính sẽ không làm phiền luỵ đến một ai mà con đem lại hạnh phúc cho gia đình, người thân và giữ gìn tốt an ninh trật tự cho xã hội. Chúng ta nhờ tin lời Phật dạy nên quyết tâm ứng dụng và hành trì thì kết quả mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cuộc sống. Qua đó, chúng ta mới thấy lời Phật dạy là chân lý nhiệm mầu luôn giúp cho mọi người biết sống yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống.

TIN CHƯ TĂNG VÀ BIẾT CUNG KÍNH

Ta tin Tăng - tức những người vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho mọi người biết cùng tu học. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Nhờ có chư Tăng ni thay Phật truyền đạt lời dạy của Ngài, khiến Chánh pháp được mở mang rộng rãi giúp nhiều người sống tốt hơn. Nhờ vậy, những ai tiếp thu được Phật pháp sẽ sống bình yên, hạnh phúc hơn và sẵn sàng chia vui, sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha. Tuy nhiên, Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược lại có 3 loại là: Bồ tát Tăng, Thanh văn Tăng và phàm phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chính xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường. Phật dạy, đối với Tam bảo Phật-Pháp-Tăng ta phải kính tin trọn vẹn. Phật thì tuỳ duyên giáo hoá, cứu độ chúng sinh vượt thoát biển khổ, sông mê và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại lời dạy vàng ngọc của Ngài. Tăng là những người kế thừa sự nghiệp của Phật, hiến trọn đời mình vì lợi ích nhân loại; nhưng ta tin Tăng mà không thần tượng quá vị thầy của mình, vì thần tượng dễ sụp đổ và dễ dàng đả phá, công kích người khác do thấy thầy mình nhân cách, đạo đức hơn người.

Tăng phàm phu là những người chân thật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người, nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ, giải thoát, giúp mọi người bớt khổ, thêm vui, tránh ác, làm lành với tinh thần thương yêu, đùm bọc, san sẻ cho nhau nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc trong từng phút giây. Tuy phàm phu Tăng vẫn còn nhiều khiếm khuyết do chưa thành tựu đạo quả, nhờ học hiểu, tu tập tới đâu thì đem ra hướng dẫn mọi người tới đó. Cho nên, ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo vô lượng, vô biên. Ngày nay, đối với Tăng bảo trong thời đại này chúng ta cần phải tìm hiểu và chọn lọc. Vì sao vậy? Vì thời đức Phật còn tại thế, Ngài biết căn cơ, trình độ, căn tánh của mọi người, nên khi giáo hóa gặp ai có cơ duyên, Ngài dạy xong họ nhận hiểu và ứng dụng rất mau ngộ đạo. Vì vậy, thời Phật trực tiếp giáo hóa Tăng Ni cũng như Phật tử được gọi là thời Chánh pháp, 100 người tu thì 100 người ngộ đạo.

Thực tế trong cuộc đời này, phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành, thuyết pháp độ sinh mang tinh thần Thánh Tăng Bồ tát và Thánh Tăng Thanh Văn, đem đạo pháp vào đời cũng bắt đầu từ phàm phu Tăng. Phàm phu Tăng là số đông đang tu học nên quý Phật tử dễ tiếp cận và gần gũi hơn, do đó mọi người vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng tu tập vào trong đời sống hằng ngày. Nhiều khi chúng ta rất mâu thuẫn, mình khuyên nhủ mọi người chuyển hoá lòng tham hoặc không nên uống rượu, hút thuốc, mà bản thân lại uống, hút liên miên. Như vậy, mình dạy người thì ai tin được? Cho nên, buộc lòng mọi người phải chọn lọc, tìm hiểu kỹ càng chứ không nên nghe ai nói sao tin vậy. Do đó, chúng ta phải dè chừng, cẩn thận, nếu ta dễ tin mà không tìm hiểu chín chắn thì vô tình làm cho Tăng bảo bị mất giá trị và ảnh hưởng không tốt đến sự tu tập của nhiều người.

TỰ TIN CHÍNH MÌNH

Kế đến, ngoài việc tin Tam bảo, tin lời Phật dạy, chúng ta còn phải tự tin nơi chính mình. Tin mình là tin cái gì? Tin ta có đủ khả năng thay đổi hoặc chuyển hóa những nghiệp nhân xấu-ác trở thành nghiệp thiện lành-tốt đẹp. Ta tin mình có khả năng bỏ được những hành động xấu và cố gắng làm những điều hay lẽ phải để giúp người, cứu vật. Trước kia khi chưa biết tu, quý Phật tử trực tiếp giết hại những con vật như gà, vịt, bò, heo để nuôi sống gia đình. Bây giờ biết tu, mặc dù vẫn ăn thịt cá nhưng chỉ mua ăn những con đã chết hoặc làm sẵn, như vậy chúng ta đã biết chuyển nhân giết hại từ từ, tự mình thấy được sự tác hại của nó, thấy sát sinh hại vật là nhân gây thù chuốc oán, làm khổ đau cho người và vật. Ý thức được sự giết hại là khổ đau nên ta quyết tâm từ bỏ thì bỏ được, chớ đâu ai bỏ thế cho mình được. Thật vậy, ai tin nhân quả tức cũng là tin vào chính mình. Ta tin rằng khổ đau hay hạnh phúc đều do chính mình tạo lấy từ những suy nghĩ, nói năng, rồi dẫn đến hành động. Đạo Phật không tin vào một đấng thần linh thượng đế hay tạo hóa nào có quyền ban phước, giáng họa trên thế gian này. Cho nên, Kinh nói ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào đã làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy. Do đó, tin nhân quả là tin thành Phật hay thành chúng sanh, sống cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, sang hay hèn, phú quý hay bần tiện… đều tùy thuộc vào chính bản thân mình có tu tập hay không tu tập mà thôi. Nhận rõ được quả báo hành vi, ngôn ngữ và ý niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không oán trách trời đất, không phiền muộn gia đình và xã hội, mà chỉ biết tự trách mình. Chúng ta sẽ tích cực tu tâm dưỡng tánh làm sao cho mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn, để cuộc đời được tươi sáng và gia đình hạnh phúc hơn.

Nếu chúng ta tin tưởng ở chính mình có khả năng thay đổi được các nghiệp nhân xấu ác và các thói quen nghiện ngập, thì ta sẽ trở thành người tốt trong hiện tại và mai sau. Ngược lại, nếu ta không tin nơi chính mình, cứ đổ thừa tại-bị-thì-là mà không can đảm vượt qua để rồi phải chịu khổ đau suốt đời, suốt kiếp. Cho nên, niềm tin nơi chính mình rất quan trọng, nó đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao độ và nhận thức rõ ràng về sự tác hại của nó, nhờ vậy giúp ta thăng tiến trên con đường tu tập mà cố gắng vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Đó là ta đã tự tin chính mình để chuyển hoá những thói quen bên ngoài, nhưng tin như vậy chưa đủ, ta còn phải tin mình có tính biết sáng suốt ngay nơi thân này, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy mà không khởi niệm phân biệt đẹp-xấu, sự vật như thế nào thì ta thấy biết rõ như thế ấy, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Như vậy, ai cũng có Phật tính thanh tịnh, sáng suốt hay chiếu soi muôn loài vật, nên thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, thân xúc chạm nóng lạnh biết và ý biết tất cả. Khi chúng ta tu, ta biết cách chuyển hoá và buông xả thì tâm hoàn toàn thanh tịnh; do đó, trí tuệ sáng suốt sẵn có phát ra. Trí tuệ ấy vượt ngoài tất cả hiểu biết thông thường của thế gian, nên Phật gọi là vô sư trí, tự nhiên trí hay căn bản trí. Chúng ta có trí vô sư, có trí căn bản, có trí tự nhiên, nhưng không chịu tin nhận nên đành phải chịu sống trong đau khổ, lầm mê.

Đức Phật là một con người, chúng ta cũng là con người, đức Phật có sẵn trí vô sư, trí tự nhiên, trí căn bản, thì chúng ta cũng có đầy đủ như Ngài. Vậy tất cả mọi người có tin không? Nếu không tin là bởi lòng tin của chúng ta còn yếu quá, vì thế mình tu hoài mà không thấy giác ngộ. Nếu chúng ta vững niềm tin nơi chính mình, khẳng định mình cũng sẽ giác ngộ như Phật trong nay mai thì ta mới mong thực hiện được nguyện vọng cao cả ấy, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Ở thế gian, các nhà khoa học hoặc bác học khi muốn nghiên cứu một đề tài gì họ phải dồn hết cả tâm lực vào đó, có khi quên cả vợ con, quên cả tắm rửa, quên cả ăn uống, họ dồn sức đi sâu trong vấn đề đang nghiên cứu. Nhờ dồn sức mãnh liệt như vậy, qua một thời gian bỗng dưng họ sáng lên nên mới gọi là phát minh. Như vậy có ai dạy họ phát minh không? Tự họ sáng ra do tâm thanh tịnh, sáng suốt và chuyên nhất, không tạp loạn. Đó là trí vô sư đã sẵn mà trước kia họ lo học, lo tìm kiếm, lượm lặt bên ngoài, nên trí ấy không thể phát ra được. Bây giờ, họ trở lại chuyên tâm dồn sức để phát huy trí tuệ của mình, do đó nó phát ra. Điều này chứng tỏ chúng ta ai cũng có sẵn trí vô sư, nhưng vì mình không chịu nhận mà lãng quên nên không dùng được, rồi tự cho mình là ngu si, mê muội.

Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Như vậy, tất cả chúng ta đều có chủng tử, có nhân duyên sẽ thành Phật. Người tu quyết chí đi tới giác ngộ viên mãn, chớ không phải tu cầm chừng cho có, thì nhất định sẽ thành Phật trong tương lai. Chúng ta đến với đạo Phật không phải để cầu khẩn, van xin, không phải để nương tựa thần quyền hay đấng tối cao nào khác, mà ta phải biết nương tựa chính mình, hoạ hay phúc từ ta mà ra. Niềm tin trong đạo Phật hướng về những điều mà Đức Phật đã giác ngộ, đó là duyên sinh, là nhân quả nghiệp báo, là vô thường-khổ-không-vô ngã. Nếu chúng ta xây dựng niềm tin không vững chắc, hoặc niềm tin có được trên cơ sở nhận thức cảm tính mà không xuất phát từ lý trí, từ kinh nghiệm thực tiễn, thì sớm muộn gì niềm tin ấy cũng bị đổ vỡ. Người ta dễ dàng bỏ đạo, thay đổi thái độ, quan điểm, cũng chỉ vì niềm tin không vững chắc và kiên cố, do không có sự tìm tòi, cân nhắc và do tham muốn quá đáng. Người ta dễ dàng bị lôi cuốn, tha hóa, chạy theo tà đạo, rơi vào mê tín dị đoan, làm điều bậy bạ cũng vì không có niềm tin chân chính, lâu dài.

Ngoài ra, còn một điều hết sức quan trọng là lòng tự tín của người Phật tử. Đây là niềm tin căn bản nhất không thể thiếu. Lòng tự tín là lòng tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin rằng mình sẽ thành Phật nếu biết cách nỗ lực tu hành. Bởi sự giác ngộ là tự mình giác ngộ chứ không ai có thể giác ngộ thay thế cho mình, vì thế nếu không có lòng tự tin thì chúng ta không cố gắng nỗ lực bền bỉ, lâu dài. Tóm lại, niềm tin căn bản trong đạo Phật là niềm tin Tam bảo Phật-Pháp-Tăng và niềm tin chính mình, tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có thể đạt đến chỗ hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Một khi có niềm tin nơi Tam bảo là những gì được xem là chân lý, là thánh thiện, thì con người sẽ phấn đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất để đạt được mục tiêu an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai; cũng như con thuyền đã xác định được phương hướng nên biết bến đỗ nơi đâu. Phật ngày xưa khi chưa thành tựu đạo pháp, nhưng nhờ có niềm tin đã khơi dậy được tánh giác nên Ngài thành Phật, còn chúng ta có tánh giác mà chưa chịu nhận nên ông Phật của mình còn ngủ quên chớ không phải không có. Bây giờ, nếu khéo tu, khéo chuyển thì chúng ta sẽ thành Phật, sẽ giác ngộ như Ngài trong nay mai.

Có nhiều người cứ nghĩ mình đủ thứ mê muội, nhiều tội lỗi, đủ thứ xấu xa nên dễ gì thành Phật, nhưng Phật đã mở ra một con đường sáng để chúng ta có đủ niềm tin mà tu hành; bởi chư Phật luôn muốn chúng sanh được giác ngộ chớ các Ngài không muốn chúng sinh chìm mãi trong biển khổ, sông mê. Quí vị khi nào được năm ba phút không nghĩ việc này, việc nọ hay không, nếu làm được vậy sẽ thấy trong đầu mình thảnh thơi, sáng suốt và an lạc vô cùng. Chúng ta càng suy nghĩ, tính toán thì càng thêm rối rắm; càng suy nghĩ thì càng bị căng thẳng, nên dễ bị bệnh thần kinh; cũng như muốn cho nước trong mà ta cứ quậy hoài thì biết bao giờ nước mới trong được. Cũng vậy, tâm chúng ta lăng xăng, điên đảo, cuồng loạn, hết nghĩ cái này lại tính cái kia vì sợ bị mất mát, thiệt thòi. Bây giờ biết tu rồi ta phải ngồi lại nhìn nó, thấy được từng tâm niệm lăng xăng chạy đôn chạy đáo, chạy ngược chạy xuôi, biết nó là vọng tưởng liền buông bỏ không theo, nhờ vậy dần hồi tâm bớt loạn động.

Muốn vượt ra ngoài biển khổ, sông mê thì chúng ta phải giác ngộ, giải thoát hoàn toàn mới được. Như hiện giờ trong tâm mỗi người mình nhớ cái gì nhiều nhất? Chắc chắn là không ngoài hai niệm thương và ghét, thương nhiều cũng nhớ mà ghét nhiều lại càng nhớ hơn, quý vị có thấy vậy không? Vì hai niệm thương-ghét này mà chúng ta phải đau khổ hoài, thương mà không được gần cũng khổ, ghét mà gặp nhau hoài càng khổ. Như vậy, trong lòng mình cứ luôn chất chứa cái thương-cái ghét, cái buồn-cái giận và đủ thứ hết. Những thứ đó là nhân sẽ đưa chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, gặp lại nhau để đền trả mãi không thôi. Nhà Phật gọi thương nhiều là ái, tức là yêu thích; từ ái sẽ dẫn tới luyến lưu trong đời này và đời sau gặp lại nhau tiếp. Ghét nhiều là tắng, tức là bực tức, thấy mặt là không ưa rồi, cũng là nhân dẫn tới đời sau phải gặp lại nhau. Muốn không nằm trong cái vòng lẩn quẩn thương-ghét đó ở mai sau nữa thì chúng ta phải dứt lìa hai niệm thương-ghét đó. Do không tỉnh giác hoặc thói quen tập khí quá sâu dày, nên chúng ta cứ ôm ấp những nhân đau khổ, vì vậy đời này khổ và đời sau càng khổ hơn. Thế cho nên, Phật dạy chúng ta tu là phải ngăn ngừa từ nhân, chừa bỏ những niệm xấu-ác để đời sau có mặt trên thế gian không gặp phiền muộn, khổ đau nữa. Đó là ta biết tu và có niềm tin nơi chính mình. Người Phật tử chân chính phải tập làm chủ bản thân ngay nơi từng ý niệm của mình. Một niệm vừa khởi lên ta tìm cách chuyển hoá, bỏ hoặc không bám víu theo thì tự động nó sẽ lặng xuống cho đến khi nào tâm mình lắng trong, thanh tịnh, sáng suốt; được như vậy ta mới sống đời giác ngộ, giải thoát.

Đức Phật dạy: “Chiến thắng vạn quân không bằng thắng chính mình. Thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất”. Cho nên, làm chủ chính mình mới là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Người Phật tử chân chính phải cố gắng, nỗ lực, quyết tâm chuyển hóa từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành động, làm sao chuyển hóa nghiệp xấu-ác trở thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, rồi chúng ta sẽ từng bước chuyển từ một phàm phu trở thành một Thánh nhân. Đó là quyền của mỗi cá nhân, ai cũng có thể làm được và ta phải tin chắc như vậy. Gốc của sự tu hành chính là tin nơi khả năng giác ngộ của mình, tin nơi trí tuệ sẵn có của mình, Phật có thì ta cũng có, vì Phật là con người mà ta cũng là con người.

(hết)

Thích Đạt Ma Phổ Giác
Sưu tầm: Hanh Nghiêm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét