Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn
Bá Tĩnh, đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Huệ Tĩnh.).
Ông xuất thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyên Công Vỹ, me là
Hoàng Thị Ngọc (1) ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là
thôn Nghĩa Phú, xã Cầm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng.
Theo truyền thuyết ở địa
phương, ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông ( thế kỷ XIV), lúc
lên 6 tuổi, cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa Hải Triều ở Yên
Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học (chùa Hải Triều sau gọi là chùa
Nghiêm Quang tức chùa Giám ở xã Cẩm Sơn, vì bị đất lở, đã dời đến xã
Tân Sơn cùng huyện Cẩm Bình). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ
chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Đình) đưa về cho ở học với nhà sư chùa
Dũng Nhuệ trong huyện. Tại đây, ông được gọi là Tiểu Huệ nên có biệt
danh là Huệ Tĩnh. Ông được học văn và học thuốc để giúp việc chữa
bệnh ở chùa.
Đến 22 tuổi, ông đi thi hương
trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Ông
tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một
số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá).
Năm 30 tuổi, ông trở về trụ trì chùa Yên Trang. Ông đã tu bổ lại
chùa này với một số chùa khác (24 ngôi) ở hạt Sơn Nam và quê
hương, huấn luyện y học cho các tăng ni để mở rộng việc chữa bệnh
làm phúc.
Năm 45
tuổi, ông thi Ðình, đậu Hoàng giáp. Năm 55
tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc. Ông được nhà Minh giữ lại làm
việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bèn ấy, không rõ năm
nào.(2)
Sự nghiệp:
Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ông đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triến y học dân tộc:
Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ông đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triến y học dân tộc:
- Hoàng Đôn Hòa, Lương dược
hầu dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây)
đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch năm 1533
với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương, và chữa cho quân đội triều
Lê khỏi dịch sốt rét và thồ tả ở Thái Nguyên năm 1574 với thuốc Tam
hoàng hoàn gồm Hoàng nàn, Hoàng lực do Tuệ Tĩnh đã phát hiện ở Nam
dược thần hiệu và Hùng hoàng đã được dùng chống khí độc lam chướng ở
Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh nói ở Bổ
âm đơn về phòng bệnh hư lao, đã được Hoàng Đôn Hòa cụ thể bằng
thuyết "Thanh tâm tiết dục" với phép "Tịnh công hô hấp" ở sách
Hoạt nhân toát yếu.
- Hải Thượng Lãn Ông (thế kỷ
XVIII) đã thừa kế 496 bài thơ dược tính của Nam dược thần hiệu chép
vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của
Tuệ Tinh chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia
trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Tuệ Tỉnh về giữ gìn tinh
khí thần để sống lâu cũng được Lãn Ông phụ họa thêm ở thiên Khởi cư
của tập "Vệ sinh yếu quyệt ".
- Đặc biệt truyền thống thuốc
nam của Tuệ Tĩnh đã để lại tập quán trong nhân dân: trồng một số cây
ở vườn đền chùa vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đình, mọi người
ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc
thường có quanh mình, cùng các phép xông hơ, chườm nóng, xoa bóp...
để chữa một số bệnh ban đầu, khi mới xảy ra, rất tiện lợi.
Truyền thống y học của Tuệ
Tĩnh đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp
trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y
học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh
thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Văn
Thai, xã Cẩm Văn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Bình,
tinh Hải Hưng. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên
Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là
Thượng thượng dẳng phúc thần năm 1572, theo thần phả do Nguyễn
.Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).
Ngày nay, các di tích nói
trên đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử để tưởng nhớ
công đức của vị Đại danh y Tuệ Tĩnh đối với sự nghiệp bảo vệ sức
khỏe của dân tộc ta.
Trước tác:
Về Phật học,
ông đã giải nghĩa bằng chữ nôm (3) sách Thiền tông Khóa Hư Lục
của vua Trần Thái Tông soạn.
Về Y học
ông đã soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia
giảm (4)
(theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Tuệ
Tĩnh không còn tròn vẹn do binh hỏa, cụ thể các thư tịch của ta đã
bị quân nhà Minh phá hủy hòi đầu thế kỷ XV khi chúng sang xâm chiếm
nước ta. Những tác phẩm còn lại đến nay đều do người đời sau biên
tập lại với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có:
1 Bộ Nam
dược thần hiệu, do Hòa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc ở
Trung Đô (phố Hòe Nhai, dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) biên tập, bổ
sung và in lại năm 1 761, gồm Bản thảo dược
tính 499 vị, (bằng thơ) và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc
nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc.
2. Nam dược chính bản,
do triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư và
in lại nǎm 1717, quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú (danh từ
được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú (220 vị
thuốc nam và một thiên Y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành,
tạng phủ, kinh mạch (thiên này xuất hiện ở bản in lại năm
1 723: AB. 288)
3- Thập tam phương gia
giảm, phụ Bổ âm đơn và
Dược tính phú (242 vị.) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ
phương đông y và phương Bổ âm đơn do tác giả sáng chế cùng phương
pháp.
o0o
1. Theo thần phả đến Yên Lư,
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
2. Quốc sử di biên của Sứ
quán triều Nguyễn nói Tụê Tĩnh mất ở Giang Nam Trung Quốc.
3. Theo Đào Duy Anh nói ở lời
đầu sách dịch Thiền tông khóa hư lục, thì văn
vần chữ nôm xưa nhất là mấy bài phú đời Trần. Về văn xuôi thì sách
giải nghĩa Thiền tông khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời Trần là xưa
nhất.
Gia giảm dùng chữa các loại bệnh ngoại cảm, ôn dịch và nội thương tạp bệnh (Thư viện Hán Nôm VHc 3626).
4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đã được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ năm 1723 (AB 306).
5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền, của Tuệ Tinh), khái quát về lý luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ năng sinh lý, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ gìn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ
Gia giảm dùng chữa các loại bệnh ngoại cảm, ôn dịch và nội thương tạp bệnh (Thư viện Hán Nôm VHc 3626).
4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đã được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ năm 1723 (AB 306).
5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền, của Tuệ Tinh), khái quát về lý luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ năng sinh lý, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ gìn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ
(theo vietsciences.free.f/vietnam/vanhoa/)
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét