(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Hạnh Huệ biên soạn - Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001
41. THIỀN SƯ NHÂN KIỆM
Nhân Kiệm tức Hòa thượng Đằng Đằng, tháng tư năm Nhâm Thìn (692), Vũ Hậu xuống chiếu rước vào cung. Ngài đến nhìn Thái Hậu im lặng giây lâu nói:
- Hội chăng?
- Không hội.
- Lão tăng giữ giới không nói.
Nói xong bỏ đi. Có làm 19 bài ca ngắn, có bài:
Tu đạo, đạo chẳng thể tu.
Hỏi pháp, pháp không thể hỏi.
Người mê chẳng rỏ sắc không.
Người ngộ vốn không nghịch thuận.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn.
Chí lý không rời gang tấc.
Biết giữ thành quách nhà mình.
Chớ dối tìm châu quận khác.
Chẳng cần học rộng nghe nhiều.
Chẳng cốt biện tài, thông suốt.
Chẳng biết tháng này đủ thiếu:
Chẳng quản năm này dư nhuận.
Phiền não tức là Bồ đề.
Hoa sạch sanh trong bùn phẩn.
Ngài đến hỏi ta thế nào?
Chẳng thể cùng y đàm luận.
Sáng sớm dùng cháo đỡ đói.
Đúng ngọ ăn thêm một bận.
Hôm nay nhậm vận đằng đằng.
Ngày mai đằng đằng nhậm vận.
Trong tâm rõ ràng biết hết.
Hãy làm ngu ngơ ám độn.
42. HUỆ KHOAN ĐẠI SƯ
Huệ Khoan họ Dương, người Ích Châu. Cha là Dương Vĩ làm đạo sĩ hiệu Tam Động Tiên sinh, có chị là Tín Tướng mới sanh đã biết đạo, trọn ngày thiền tịch. Năm sáu tuổi Huệ Khoan hàng ngày cùng chị luận bàn đạo lý, người nghe không ai hiểu. Gia thế theo đạo Lão, một mình Khoan chẳng vui. Cha quở mắng bắt lạy Thiên Tôn. Ngài bất đắc dĩ lễ bái, tượng đồng bỗng đổ xuống vỡ ra. Thân tộc kinh dị, nhân đó chép ngôn cú đã luận. Trước là thiền sư Đàm Tướng ở chùa Long Hoài, lúc lâm chung bảo đệ tử tên Hội rằng:
- Ta bảo duyên sẽ sanh vào nhà họ Dương, ở đỉnh núi Miên Trúc, Quảng Hán. Sau bảy năm hãy đến gặp ta.
Nói xong thị tịch. Sau Hội nằm mộng thấy Đàm Tướng trách mình lỗi hẹn. Hội thất kinh tỉnh dậy liền đến đỉnh núi gõ cửa. Khoan hỏi:
- Ai gõ cửa?
Hội thưa:
- Dạ, đệ tử là Hội.
Khoan cười nói:
- Làm sao biết ta mà xưng là đệ tử?
Hội thưa:
- Nghe tiếng Thầy giống tiếng ngày xưa.
Ngài bèn ra gặp. Người cha đem những lời ghi chép sự đàm luận của Ngài và Tín Tướng ra, Ngài dạy là luận Đại Trang Nghiêm.
Hội liền rước Ngài về chùa Long Hoài xuống tóc, khi ấy mười ba tuổi, Hội kính sợ như thần. Chúng ở Long Hoài ba ngàn người, Hội đều đích thân tận lực làm, Huệ Khoan một mình nhàn nhã. Mọi người bàn tán, Hội nói:
- Đây là tiên sư của ta. Do đó đã đầy đủ đạo đức.
Từ đây thần dị ngày một hiển lộ. Người đời gọi là Hòa thượng Thánh. Niên hiệu Vĩnh Huy năm thứ tư (653) ngày 25 tháng 6, Ngài Thị tịch.
Người đời cho là ứng thân Quan Thế Âm.
43. BÁ TRƯỢNG HOÀI HẢI
Sư nói:
Sư nói:
- Ở đất Thánh mà tập phàm. Vì Phật vào trong chúng sanh, thị hiện đồng loại để dẫn dắt vỗ về và cùng loài với ngạ qủy, thân thể bị lửa đốt, thuyết cho chúng Bát Nhã Ba la mật, khiến chúng phát tâm. Nếu cứ ở mãi đất thánh thì nương vào đâu mà nói chuyện với chúng được. Phật vào chốn khổ cũng đồng như chúng sanh chịu khổ, chỉ khác là đi đứng tự do không giống chúng sanh.
Sư trụ ở Bá Trượng, thấy luật Thiền Tông từ Thiếu Thất đến Tào Khê, phần nhiều nương theo luật chùa. Thuyết pháp, trụ trì, chưa có quy củ. Ngài bèn than:
- Nếu muốn Tổ đạo truyền bá chẳng mất, há nên theo hạnh của Tiểu thừa sao?
Vì thế Ngài sáng lập Thiền cư, hễ người đủ đạo nhãn, đức đáng tôn trọng thì gọi là Trưởng lão. Ai làm Hóa chủ thì ở phương trượng, không lập điện Phật, chỉ tạo Pháp đường. Học chúng bao nhiêu đều vào trong tăng đường hết, y theo tuổi hạ an bài. Đặt giường nối dài, khi nằm thì gối xéo, quay bên phải theo thế kiết tường mà ngủ. Khi vào thất thỉnh ích dù người học siêng hay lười, hoặc lớn hoặc chẳng câu nệ theo lệ thường. Tất cả đại chúng trong viện, sáng tham thỉnh chiều nhóm họp, trưởng lão thượng đường, thăng tọa, chủ sự theo chúng thứ tự đứng lắng nghe. Khách chủ vấn đáp, kích dương tông yếu, ngày hai buổi cơm cháo, tùy chúng chia đều. Thi hành pháp phổ thỉnh, đặt mười nhà vụ liêu. Mỗi nhà một người cầm đầu trông coi nhiều người, để cho mỗi ty thuộc trong nhóm, có ai giả hiệu, trộm hình lẫn lộn trong thá nh chúng, gây sự quấy nhiễu người khác, duy na sẽ đưa lên, kéo ra khỏi bổn vị quải tháp (khi được nhận vào chúng, gọi là cho quải tháp), tẫn xuất đuổi ra khỏi viện. Hoặc người kia xúc phạm, như lấy gậy đánh, thì nhóm chúng đốt y bát đạo cụ, đuổi ra theo cửa bên, coi như để sỉ nhục.
44. ĐÀM TẠNG Nối pháp MÃ TỔ - Ẩn cư HÀNH NHẠC
Đàm Tạng thọ tâm ấn ở Mã Tổ, sau yết kiến Thạch Đầu được thấu triệt. Niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ hai, Sư ở ẩn trên chót đảnh Hành nhạc, ít người đến tham phỏng. Sau vì đau chân, mới dời đến ở Tây Viên; các thiền khách đến thăm viếng ngày càng đông. Một hôm tự nấu nước tắm, tăng hỏi:
- Sao không sai Sa di?
Sư liền vỗ tay ba cái. Sư thường nuôi một con Linh Cẩu. Đêm đêm đi kinh hành, khi nào chó kéo áo thì mới trở về phương trượng, còn chó thì nằm bên cửa canh. Một đêm nó sủa đổng, chồm lên dữ tợn, đến sáng thấy phía đông nhà bếp có một con trăn lớn dài mấy trượng há miệng thở phì, hơi độc xông ra, thị giả thỉnh Sư tránh chỗ khác. Sư nói:
- Cái chết có thể trốn được sao? Nó đem độc đến, tôi dùng lòng từ để nhận, độc không thực tánh, kích phát thì nó mạnh, còn lòng từ vô duyên, oán thân một đạo.
Sư nói xong, trăn cúi đầu từ từ bò đi, chốc lát không thấy nữa.
Một tối có ăn trộm đến, chó cũng cắn y của Sư. Sư bảo ăn trộm:
- Nhà tranh có vật gì ưng ý cứ việc lấy đi, ta chẳng tiếc gì.
Ăn trộm cảm lời Ngài, cúi lạy giải tán.
45. BẢO TÍCH
Ban đầu tham Mã Tổ, làm nhai phường (*). Một hôm đi giữa chợ gặp một người khách mua thịt heo, bảo hàng thịt rằng:
- Lựa miếng ngon, cắt cho một ký.
Hàng thịt buông dao vòng tay nói:
- Trưởng Sứ! Có miếng nào mà không ngon?
Bảo Tích có tỉnh. Lại một hôm Sư ra cửa gặp đám ma. Một người cầm linh khua hát:
Mặt trời nhất định lặn về Tây
Chưa rõ linh hồn đến phương nào?
(Hồng luân quyết định trầm Tây khứ.
Vị thẩm hồn linh vãng na phương?)
Ngay lúc đó tang gia đang kêu khóc bi ai dưới màn, Bảo Tích mừng rỡ cả thân tâm, trở về kể lại cho Mã Tổ, Tổ ấn khả. Sau trụ Bàn Sơn.
(*) Nhai phường: Có nhiệm vụ vào chợ búa để xin vật dụng cho đại chúng.
46. THIỀN SƯ MINH TOẢN Thuyết pháp HÀNH NHẠC
Minh Toản tức Lại Tàn, chấp dịch ở Hành Nhạc, nhặt đồ thừa mà ăn. Tánh Sư lười biếng, ăn đồ thừa nên có hiệu là Lại Tàn. Tể tướng Lý Bí đề cao đức hạnh của Sư lên vua Đức Tông, vua sai chiếu mời. Sứ giả đến hang đá tuyên chiếu vua nói:
- Tôn giả hãy đứng lên tạ ơn vua.
Toản làm thinh, mũi dãi lòng thòng. Sứ giả trông thấy cười bảo Ngài chùi mũi. Toản nói:
Ta hơi sức đâu mà vì người đời chùi mũi.
Rồi không chịu đi.
Thích Sử sắp tế thần núi, lo sửa đường lên. Nửa đêm sấm gió, một khối đá to rơi xuống chắn ngang đường. Người sửa đường đem mười trâu đến kéo, lại thêm mấy trăm người giup mà hòn đá không nhúc nhích. Sư cười nói:
- Chẳng phiền nhiều sức. Rồi lấy chân đạp đá, đá lăn tròn rồi rơi xuống, tiếng như sấm nổ. Đường được khai thông, mọi người xem Sư như thần. Ngoài cổng chùa, cọp beo chợt họp thành bầy. Sư bảo chúng tăng:
- Tôi sẽ đuổi sạch chúng cho các ông. Đưa roi đây!
Chúng lấy roi đưa, Sư vừa ra khỏi chùa. Một con cọp vội vàng vâng lệnh Sư bỏ đi, hổ beo cũng theo đó mà dứt tuyệt dấu vết.
Sư thường có bài ca:
Ngơ ngơ vô sự không cải đổi
Vô sự đâu cần luận một đoạn
Trực tâm không tán loạn,
Việc khác chẳng cần đoạn.
Quá khứ đã qua đi
Vị lai vẫn chẳng tính
Ngơ ngơ vô sự ngồi
Đâu từng có người gọi.
Hướng ngoại tìm công phu
Đều là tên ngu ngôc.
Lương chẳng chứa một hột
Gặp cơm chỉ biết kêu.
Người đa sự ở đời,
Đuổi theo mà chẳng kịp.
Ta chẳng ưa lên trời,
Cũng chẳng thích ruộng phước.
Đói đến ăn cơm,
Mệt đến thì ngủ.
Người ngu cười ta,
Mà người trí biết.
Chẳng phải si độn,
Thể vốn như nhiên.
Cần đi thì đi,
Cần đứng thì đứng,
Thân khoác manh áo rách,
Chân mặc khố mẹ sanh.
Nhiều lời và lắm lẽ
Chỉ làm hiểu lầm nhau.
Nếu muốn độ chúng sanh,
Không gì hơn tự độ.
Chớ báng Phật thiên chân
Chân Phật chẳng thể thấy.
Diệu tánh và linh đài
Đâu cần chịu rèn luyện.
Tâm là tâm vô sư
Mặt là mặt mẹ sanh.
Kiếp thạch có di động,
Trong đây không cải biến.
Vô sự vốn vô sự
Đâu cần đọc văn tự
Dẹp trừ gốc nhân ngã,
Thầm hợp ý trong này.
Các thứ nhọc gân cốt,
Chẳng bằng ngủ trong rừng
Ngơ ngơ ngẩng đầu nhìn,
Mặt trời lên cao
Ăn thức ăn thừa
Đem công dụng công
Dần dà mờ tối.
Nắm lấy chẳng được,
Không nắm tự thông.
Ta có một lời,
Dứt nghĩ, quên duyên,
Nói khéo chẳng được,
Chỉ đem tâm truyền.
Lại có một lời,
Chẳng qua cho thẳng,
Nhỏ như mảy lông,
Lớn không nơi chốn.
Vốn tự viên thành,
Chẳng nhọc thêu dệt.
Thế sự mang mang,
Chẳng bằng non núi,
Tùng xanh che trời,
Suối biếc chảy dài,
Mây núi đang giăng,
Trăng đêm làm móc,
Nằm dưới dây leo.
Gối đầu tảng đá.
Chẳng chầu thiên tử.
Há khoái vương hầu.
Sanh tử chẳng lo,
Còn lo gì nữa?
Trăng nước không hình.
Ta thường chỉ an,
Vạn pháp đều vậy
Vốn tự vô sanh.
Ngơ ngơ vô sự ngồi,
Xuân đến cỏ tự xanh.
Lửa phân bò chỉ biết màu vàng đẹp mà thôi.
Móc bạc đâu rành bùn tía mới
Còn chẳng có tâm chùi mũi dãi
Há có công phu hỏi người tục.
(Phẩn hỏa đản tri hoàng độc mỹ
Ngân câu na thức tử nê tân
Thượng vô tâm tự thu hàn thế
Khởi hữu công phu vấn tục nhân).
47. ẨN SỸ LÝ NGUYÊN Thăm TỲ KHEO VIÊN TRẠCH
Xưa An Lộc Sơn vây hãm Đông Thành, Lý Đăng bị cầm giữa đến chết. Lý Nguyên là con, phẫn chí tự thề không làm quan, không lấy vợ, không ăn thịt, bỏ nhà làm chùa Huệ Lâm. Tăng trong chùa là Viên Trạch, kết bạn với Nguyên rồi dẫn nhau đi dạo Nga Mi. Nguyên muốn đi từ Kinh Châu qua sông Tố lên đường núi, còn Trạch muốn đi theo đường Tà Cốc Trường An. Nguyên nói:
Tôi đã dứt việc đời, há trở lại đường kinh sư sao?
Trạch làm thinh, hồi lâu nói:
- Đi đứng cố nhiên chẳng do ý người.
Bèn đi theo đường Kinh Châu, thuyền đến Nam Phổ, thấy một người đàn bà mặc quần gấm múc nước. Trạch chỉ và khóc nói:
- Tôi không muốn đi đường này cũng vì bà ta.
Nguyên cả kinh hỏi. Trạch nói:
- Bà này họ Vương, tôi sẽ làm con bà. Bà mang thai ba năm rồi, vì tôi không đến nên không sanh được. Nay đã thấy thì không còn trốn thoát được. Ông nên dùng phù chú nguyện giúp tôi sanh mau. Ba ngày sau, lúc tắm đứa bé, mong ông đến với tôi, tôi sẽ cười để làm tin. Và sau mười ba năm, dưới trăng Trung thu, phía ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu sẽ cùng ông tương kiến. Tôi đã ba đời làm Tỳ kheo tu tập Thiền, ở sông Tương phía Tây chùa Nhạc Lộc có hòn đá to, tôi tọa thiền trên đó.
Nguyên nghe xong thương xót hối hận. Đến chiều thì Trạch chết. Người đàn bà sanh được ba ngày thì Nguyên đến xem, đứa bé quả nhiên cười. Sau đến kỳ hạn, Nguyên đến chỗ hẹn ước, nghe bên bờ sông Cát Hồng có mục đồng gõ sừng trâu mà ca rằng:
Ba năm trên đá tinh hồn cũ
Hưởng trăng, vịnh gió chẳng cần bà
Hổ thẹn tình người xa đến viếng
Thân này tuy khác tánh còn nguyên.
(Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn
Thưởng nguyệt, ngâm phong bất yếu luận
Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng
Thử thân tuy dị tánh thường tồn).
Nguyên bèn gọi:
- Trạch Công mạnh không?
Đáp rằng:
- Chân tín sĩ Lý Công! Ông duyên tục chưa hết, cẩn thận chớ gần nhau, chỉ chuyên cần tu thì chẳng đọa. Rồi sẽ gặp nhau nữa.
Lại ca rằng:
Thân trước thân sau sự mịt mùng
Muốn nói nhân duyên sợ điếng lòng
Ngô Việt núi sông tìm đã khắp
Khua chèo trở lại đến Cù Đường.
(Thân tiền thân hậu sự mang mang
Dục thoại nhân duyên khủng đoạn trường
Ngô Việt sơn xuyên tầm dĩ biến
Khước hồi yên trạo thướng Cù Đường).
Rồi ẩn mất không thấy nữa. Nguyên ở chùa hơn ba mươi năm, chết lúc hơn tám mươi.
48. THIỀN SƯ PHÁP KHÂM
Pháp Khâm họ Chu ở Côn Sơn, theo Nho nghiệp. Lúc mẹ Ngài mang thai, nằm mộng thấy hoa sen mọc ở then cửa, bà lấy một bông cột vào thắt lưng. Tỉnh giấc, không ưa ăn mặn và sanh ra Ngài. Ngài hình dung kỳ vỹ, thần sắc sáng rỡ, ưa lấy Phật sự để nô đùa. Năm 22 tuổi về kinh ứng thí. Vì đi đường bộ nên ghé nghỉ ở chùa Hạc Lâm. Huyền Sách trông thấy lấy làm kinh dị hỏi:
- Ông làm gì?
- Mong lên kinh đô làm quan.
- Tuy có tước ngũ đẳng đâu bằng làm bậc tôn quý trong tam giới.
- Học được chăng?
- Xem thần khí của ông thì ông thuộc loại sanh ra đã biết. Nếu chịu xuất gia, sẽ ngộ tri kiến của Như Lai.
Pháp Khâm bèn xé bỏ sách vở, khắc khổ thân cận, nương theo Huyền Sách tu tập. Sách thầm nhậm là pháp thí, bảo với môn nhân Pháp Cảnh rằng:
- Gã này sẽ hoằng dương rộng lớn pháp của ta, là bậc Thầy người.
Pháp Khâm ngày đêm gắng gỏi, tam học đều tinh thông. Một hôm thỉnh Huyền Sách chỉ dạy pháp yếu. Huyền Sách bảo:
- Không người nào được pháp của ta.
- lấy gì để truyền.
Pháp Khâm chóng dứt các nghi trệ. Sau từ giã ra đi. Huyền Sách nói:
- Ông theo dòng mà đến, gặp “kính” thì dừng.
Pháp Khâm bèn đi về Nam, thọ đại giới ở chùa Long Tuyền Dư Hàng, rồi đến Lâm An ở phía Đông Bắc một ngọn núi, hỏi tiều phu rằng:
- Đây là núi gì?
- Đây là núi Kính Sơn.
Sư bèn trụ ở đây. Có tăng hỏi:
- Thế nào là đạo?
Pháp Khâm bảo:
- Trên núi có con cá Lý Ngư, dưới đáy nước có bụi dấy.
Mã Tổ sai người đem thư đến. Trong thư vẽ một vòng tròn. Pháp Khâm mở xem, vẽ vào vòng tròn rồi gởi trả.
Mã Tổ lại sai Trí Tạng đến hỏi:
- Trong mười hai giờ, lấy gì làm cảnh?
- Đợi lúc ông đi về, ta sẽ có tin.
- Về ngay bây giờ.
- Nhắn lại phải hỏi Tào Khê.
Vua Đại Tông lưu tâm đến Không môn khiến các đạo sĩ sanh lòng đố kỵ. Tháng 9 niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba (768). Đạo sĩ Sử Hoa tâu xin cùng họ Thích đấu phép. Bèn ở Đông Minh Quán, đặt giá dao làm thang, Sử Hoa leo lên đi như trên đường đá. Các tăng lữ nhìn nhau không dám bước lên. Khi ấy Sa môn Sùng Huệ ở chùa Chương Kính vâng lịnh vua, ở trên cây trong sân chùa, dựng một cái thang, bậc toàn mũi nhọn, sắc trắng như sương, cao hơn thang ở Đông Minh Quán cả trăm thước. Sùng Huệ đi chân không mà lên, đến mút thang dừng lại, leo xuống như đi trên đất bằng rồi đạp trên lửa hừng, thử dầu sôi, ăn miếng sắt, nuốt đinh. Các đạo sĩ trông thấy toát mồ hôi ướt áo bỏ chạy. Mọi người hoan nghinh, tiếng đồn như sấm. Vua càng thêm kính trọng xuống chiếu ủy lạo, khen ngợi mấy lượt, ban tử y và gọi là Hộ Quốc Tam Tạng, vời vào cung hỏi:
- Sư đệ tử ai?
- Cao tăng Pháp Khâm núi Kính Sơn là thầy của hạ thần. Thần chưa đủ giới pháp, không dám nhận tử y.
Vua đặc biệt ra lệnh mở đàn giới. Vừa Yết ma, Sùng Huệ ẩn thân trên đàn, không biết ở đâu. Vua càng kinh dị, bèn lễ Pháp Khâm làm thầy, sai nội thị cầm chiếu chỉ đi thỉnh. Sư đến, vua đích thân đi đón và hỏi pháp, làm lễ đệ tử.
Pháp Khâm một hôm ngồi trong sân trong, thấy vua đến liền đứng lên. Vua hỏi:
- Vì sao Sư đứng lên?
Sư đáp:
- Đàn việt đâu được ở trên bốn oai nghi mà thấy bần đạo.
Vua đẹp lòng ban hiệu là Quốc Nhất. Chẳng bao lâu Sư muốn từ biệt đi. Vua nói:
Chúng sanh ở đây có người đáng độ, chúng sanh kia há có khác sao?
Pháp Khâm đáp:
- Thực không có pháp để độ chúng sanh.
Pháp Khâm ở kinh đô chỉ một năm. Vua Đại Tông mỗi lần ban tơ lụa, dọn ngự tuyển Sư đều không nhận, chỉ mặc áo vải, ăn rau, đồ dùng bằng sành như lúc thường. Tướng Quốc Dương Oản thấy thế khen:
- Đây là bậc cao sĩ phương ngoại, khó được danh như thế.
Thôi Triệu Công Quần thường hỏi Ngài:
- Đệ tử xuất gia được chăng?
Ngài đáp:
- Xuất gia là việc của đại trượng phu. Há dũng tướng mà làm được.
Quần khen ngợi lời này. Rồi Ngài từ giã trở về núi cũ.
Sư từ Trường An trở về Kính Sơn. Về sau Thích Sử mời về chùa Long Hưng ở Hàng Châu. Pháp Khâm bèn qua lại nơi đó, chẳng chọn chỗ ở nhất định. Ngày 28 tháng 12 niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tám (792) Sư thị tịch ở Long Hưng. Trước đó ba ngày, Sư bảo chúng:
Nên chôn ta ở hố đất ngoài sân phía Nam, đừng làm quan tài sợ làm trở ngại đất trồng rau của tăng đồ.
Sư thọ 92 tuổi, 70 tuổi hạ. Bi nguyện của Sư sâu rộng, ai thấy mặt nghe danh đều như con được mẹ. Vì thế phía Đông đến núi Thái Sơn giáp biển, phía Tây đến Lũng Thục, phía Nam tiếp Giao Quảng, phía Bắc đến tận phương Bắc (Sóc Phương). Người học đạo thảy đều kính mộ quay về. Người tham học đều coi Sư là Công Đức Sơn, đến cả trời rồng cùng quy kính hướng về loài khác quy y, đất mọc cỏ Linh Chi, trên trời mưa Cam Lộ. Đèn Thánh soi đêm, mây gấm sáng vờn, mãnh thú ở một bên, chim chóc tụ đầy thất đến ăn trên tay Sư. Có hai thỏ trắng quỳ lạy trong phương trượng, một gà thường theo nghe pháp, chẳng ăn vật sống. Khi Ngài đến Trường An, nó kêu suốt ba ngày mà chết. Một con vượn cũng thường ở trong thiền thất, chẳng đi đâu khác. Khi Sư tịch, ba ngày sau cũng chết theo.
49. PHONG CAN – HÀN SƠN - THẬP ĐẮC Thị hiện THIÊN THAI
Phong Can, chẳng biết người ở đâu. Niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Sư đến ở chùa Quốc thanh núi thiên Thai, cắt tóc ngang mày, mặc áo vải rách, có ai hỏi lý Phật, chỉ đáp hai chữ “tùy thời”. Thường xướng đạo, cưỡi cọp ra vào, chúng tăng đều kinh sợ chẳng ai dám nói chuyện với Sư. Có Hàn Sơn, Thập Đác cũng chẳng biết dòng họ, người đời cho là đồ điên khùng, chơi thân với Phong Can. Hàn Sơn ở núi Hàn Nham cách huyện Đường Hưng bảy mươi dặm về phía tây, nhân đây thành tên. Thập Đắc thì do Phong Can khi đến Xích Thành, nghe tiếng trẻ con khóc ở bên đường, hỏi thì nói: “Mồ côi bị bỏ ở đây”. Do đó đặt tên Thập Đắc, đem về giao cho khố ở sau viện. Khố tăng (Tăng coi kho) tên là Linh Tập coi nhà ăn và hương đèn, Thập Đắc bỗng leo lên toà, ngồi đối diện với tượng Phật mà ăn, sau lại ở trước Thánh tăng hô lên:
- Tiểu quả Thanh văn!
Linh Tập liền báo cho các bậc Tôn túc, rồi đổi xuống nhà bếp rửa chén bát. Hằng ngày tăng chúng thọ trai xong, Thập Đắc gạn lại thức ăn dư bỏ trong ống đồng. Hàn Sơn đến liền cõng đi. Hàn Sơn dung mạo khô gầy, áo quần tơi tả, lấy vỏ cây làm mũ, mang guốc gỗ to. Lúc đến chùa, hoặc đi dạo dưới hiên, hoặc vào bếp chụm lửa, hoặc chơi với mục đồng, có lúc quát tháo, ngửa mặt lên trời mà chửi, hoặc nói: “Than ôi! Than ôi! Tam giới luân hồi!”.
Tăng lấy gậy đuổi thì vỗ tay cười to. Một hôm, hỏi Phong Can rằng:
- Gương xưa chẳng bao lâu, làm sao soi chiếu?
- Băng đài không hình bóng.
- Khỉ vượn mò thủy nguyệt (*).
- Đây là chẳng chiếu soi, thỉnh Sư nói nữa.
- Vạn đức chẳng đem đến, bảo ta nói cái gì?
Hàn Sơn, Thập Đắc đều làm lễ. Phong Can bảo Hàn Sơn:
- Ông đi dạo Ngũ Đài với ta thì là bạn với ta; nếu không đi, không phải bạn ta.
- Tôi không đi!
- Phong Can nói:
- Ông chẳng phải bạn ta.
Hàn Sơn hỏi Phong Can:
- Ông đi Ngũ Đài làm gì?
- Ta đi lễ Văn Thù.
- Ông không phải bạn của ta.
Phong Can đi Ngũ Đài một mình. Gặp một ông già, Phong Can hỏi:
- Có phải Văn Thù không?
- Há có hai Văn Thù?
Phong Can liền làm lễ. Chợt ông già biến mất. Sau Phong Can trở về Thiên Thai thị tịch.
Hàn Sơn nhân chúng tăng nướng cà, bèn lấy xâu cà đánh vào lưng một vị tăng, tăng quay đầy lại. Hàn Sơn đưa xâu cà hỏi:
- Là cái gì?
Tăng nói:
- Gã điên này!
Hàn Sơn hỏi tăng bên cạnh:
- Ông nói xem ông sư này tốn bao nhiêu tương muối?
Triệu Châu đến Thiên Thai, đi thấy dấu chân trâu. Hàn Sơn hỏi:
- Thượng tọa lại biết trâu chăng? Đây là năm trăm La hán dạo núi.
- Đã là La hán vì sao lại làm trâu.
Hàn Sơn nói:
- Trời xanh! Trời xanh!
Triệu Châu cười ha ha.
Hàn Sơn nói:
- Cười cái gì?
Triệu Châu nói:
- Trời xanh! Trời xanh!
Hàn Sơn nói:
- Chú nhỏ này lại có tư cách đại nhân.
*
Thập Đắc quét đất, chủ chùa hỏi:
- Ngươi họ gì? Ở đâu?
Thập Đắc buông chổi vòng tay đứng. Chủ chùa mờ mịt.
Hàn Sơn đấm ngực nói:
- Trời xanh! Trời xanh.
Thập Đắc hỏi:
- Ông làm gì vậy?
Hàn Sơn nói:
- Há không nghe nói nhà phía Đông có người chết, nhà phía Tây buồn lây sao!
Rồi vừa múa, vừa cười khóc mà ra.
Thập Đắc lại chăn trâu ở trang xá ca vịnh kêu trời rằng:
- Ta có một hạt châu, chôn ở trong ấm giới không một ai biết cả.
Chúng tăng thuyết giới. Thập Đắc lùa trâu đến, tựa cửa vỗ tay mỉm cười nói:
- Mờ mịt thay! Chụm đầu làm bộ, cái này thế nào?
Tăng nổi giận mắng:
- Đồ hạ tiện khùng điên! Phá sự thuyết giới của ta!
Thập Đắc cười nói:
Không sân tức là giới!
Tâm tịnh tức xuất gia
Tánh ta cùng ông hợp
Tất cả pháp không sai.
Rồi lùa trâu ra, hô tên tăng đời trước. Trâu liền ứng tiếng mà đi qua. Thập Đắc lại nói:
- Đời trước chẳng trì giới, mặt người mà lòng thú. Ngươi nay tạo lỗi này, lại oán hận người nào? Sức Phật tuy rất lớn mà ngươi phụ ơn Phật.
*
Thần hộ Già lam, thức ăn để dưới Tăng trù cứ bị quạ tới phá. Thập Đắc lấy gậy đánh nói:
- Thức ăn ngươi còn không thể giữ được, làm sao hộ Già Lam?
Thần liền báo mộng cho tăng trong chùa:
- Thập Đắc đánh tôi.
Đến sáng, chúng tăng kể lại mộng, đều thấy như nhau. Bèn đến xem tượng thần, quả nhiên thấy có chỗ bị bể. Ai nấy đều kinh dị, đem trình lên Quận huyện. Quận bảo: “Hiền sĩ dấu vết tích là Bồ tát ứng thân” và gọi là Hiền sĩ Thập Đắc.
*
Lúc đầu Lư Khâu Dận, sắp nhậm Đan Khâu, bị đau đầu, thuốc men trị chẳng lành; gặp một thiền sư tên Phong Can bảo rằng từ Thiên Thai đến yết kiến sứ quân. Ông kể bệnh mình, Phong Can nói:
- Thân ở nơi tứ đại, bệnh từ huyễn thân. Nếu muốn trừ nó, phải lấy nước sạch.
Rồi đòi bình nước, đọc thần chú phun lên đầu, lập tức hết đau. Dận lấy làm lạ, bèn hỏi xin cho biết sự an nguy từ đây về sau. Phong Can nói:
- Hãy nhớ đến yết kiến Văn Thù, Phổ Hiền. hai vị Bồ tát này, thấy thì chẳng biết, biết thì chẳng thấy. Nếu muốn thấy, chẳng được chấp tướng. Chính là Hàn Sơn, Thập Đắc đang lao dịch ở chùa Quốc Thanh.
Dận đến nhậm chức ba ngày rồi đến chùa Quốc Thanh hỏi:
- Chùa này có thiền sư Phong Can chăng? Hàn Sơn, Thập Đắc là ai?
Tăng Đạo Kiểu đáp:
Phong Can nền cũ ở sau Tàng kinh. Nay vắng vẻ không người. Còn Hàn Sơn, Thập Đắc đang ở nhà bếp.
Dận đi vào phòng của Phong Can, chỉ thấy dấu chân cọp. Lại hỏi:
- Ngài Phong Can hồi ở đây làm gì?
Đạo Kiểu đáp:
- Chỉ phụ giã gạo cúng tăng, rảnh thì ngâm vịnh.
Dận xuống bếp tìm Hàn Sơn, Thập Đắc, thấy đang thổi lửa, rồi vỗ tay cười to. Dận đến lễ bái, hai người quát mắng liên thanh, nắm tay cười to nói:
- Phong Can lắm mồm, Phong Can lắm mồm! Phật Di Đà chẳng biết, lễ chúng ta làm chi?
Tăng chúng ùa đến, kinh ngạc bảo nhau:
- Vì sao tôn quan lại làm lễ hai gã bần sĩ này?
Hai người bèn nắm tay chạy ra khỏi chùa.
Dận khiến đuổi theo. Hai người lại chạy gấp vào Hàn Nham. Dận lại hỏi tăng:
- Hai người này chịu ở lại chùa này chăng?
Rồi bèn sai người tìm thăm hỏi để đem về chùa an trí. Dận trở về quận, cắt may hai cặp áo sạch cùng hương, thuốc ... đem đến cúng dường, nhưng hai vị không về nữa. Sứ liền đến núi đưa lên thấy Hàn Sơn lớn tiếng hét:
- Giặc! Giặc!
Rồi vào kẽ đá núi, lại nói:
- Báo cho mấy người, nên cố gắng lên!
Kẽ đá tự khép lại, chẳng thể đuổi theo. Còn thập Đắc thì chẳng thấy dấu vết. Sau có tăng đi hái củi ở Nam Phong, cách phía Đông Nam chùa hai dặm gặp một Phạm tăng chống gậy vào núi, gánh một vòng xương nói:
- Lấy Xá lợi của Thập Đắc.
Mới biết Thập Đắc nhập diệt ở đây. Nhân đó gọi núi là Thập Đắc. Dận sai Đạo Kiểu tìm thăm di tích. Ở trong rừng, trên lá cây được thư, từ, tụng của Hàn Sơn và các người trong thôn làng hơn ba trăm bài. Thập Đắc cũng có thơ hơn mấy mươi bài đề trên vách đá miếu Thổ địa, được gom góp thành tập.
Thơ Hàn Sơn:
Nhớ lại mươi năm trước
Thả bộ Quốc Thanh về
Trong chùa ai cũng nói
Hàn Sơn là kẻ si
Si không biết tầm tư
Riêng ta còn chẳng biết
Thì y biết nỗi gì!
Cúi đầu đừng hỏi nữa
Hỏi được lại làm chi?
Có người đến chửi tớ
Tớ biết rõ tức thì
Tuy nhiên không ứng đối
Thế mà được tiện nghi.
(*) Thủy nguyệt: Trăng trong nước.
50. THIỀN SƯ ĐẠO LÂM
Sư họ Phan quê ở Phú Dương. Mẹ nằm mộng thấy nuốt ánh sáng mặt trời mà có thai, đến khi sanh hương lạ xông khắp nhà, nên đặt tên Sư là Hương Quang. Lên chín tuổi Sư xuất gia, hai mươi mốt tuổi thọ giới. Sau đến Trường An lễ pháp sư Phục Lễ học kinh Hoa Nghiêm, luận Khởi Tín. Pháp sư Phục Lễ dạy bài tụng Chân Vọng, bắt tu Thiền na. Đạo Lâm hỏi:
- Khởi đầu làm sao quán? Làm sao dụng tâm?
Phục Lễ làm thinh chẳng nói. Sư lạy ba lễ lui ra. Sau Pháp Khâm đến cung vua, Đạo Lâm đến yết kiến bèn được chánh pháp.
Sư từ khi được tâm ấn của Pháp Khâm, liền đến chùa Vĩnh Phước ở Cô Sơn, có tháp Phật Bích Chi. Lúc đó đạo tục đang làm pháp hội. Ngài chống gậy đi vào, pháp sư Thao Quang hỏi:
- Đây là pháp hội, sao ông làm ồn thế?
Sư đáp:
- Không gây tiếng ồn ai biết là hội.
Sau Ngài thấy núi Tần Vọng, rặng tùng xoay vòng quanh như bảo cái bèn leo lên ở. Vì thế được gọi là thiền sư Điểu Khòa (ổ chim), lại có một ổ chim khác bên cạnh, tự nhiên quen thuộc, nên Sư còn được gọi là Hòa thượng Thước Sào.
Có Lục cung sứ là Ngô Nguyên Khanh, người Hàng Châu, thông minh mẫn ngộ, vua Hiến Tông rất ưa thích. Một hôm ở cung Chiêu Dương, thấy hoa cỏ tốt tươi, đang bồi hồi thưởng ngoạn chợt nghe trên không trung có tiếng:
- Những tướng hư huyễn, nở rụng không dừng, hay hoại căn lành, nhơn giả đâu nên hưởng chúng.
Nguyên Khanh bừng tỉnh, muốn thoát trần tục, vào năn nỉ vua, vua cho về nhà. Nhân pháp sư Thao Quang yết kiến Đạo Lâm, ông theo thưa:
- Đệ tử bảy tuổi đã ăn chay, mười một tuổi thọ ngũ giới, năm nay hai mươi hai tuổi, định xuất gia nên đã nghỉ làm quan. Mong Hòa thượng độ con làm tăng.
Ngài Đạo Lâm bảo:
- Đời nay làm tăng, ít người chịu tinh khổ, tính hạnh phần nhiều hời hợt.
Nguyên Khanh thưa:
Vốn sạch đâu cần mài giũa
Sẵn sáng không theo chiếu.
(Bổn tịnh phi trác ma
Nguyên minh bất tùy chiếu).
Đạo Lâm nói:
- Ông nếu rõ thể của tịnh trí diệu viên tự không tịch, tức là chân xuất gia, đâu cần tướng bên ngoài. Ông nên làm Bồ tát tại gia, tu bố thí và trì giới, như bọn ông Tôn Hứa đi.
Nguyên Khanh thưa:
- Lý tuy như vậy nhưng chẳng phải chí của con. Cúi mong Thầy từ bi nhiếp thọ, con thể tuân theo lời Thầy dạy.
Thưa thỉnh đến ba lần mà Đạo Lâm vẫn chẳng nhận. Thao Quang khuyên:
- Cung sứ chưa hề lấy vợ, cũng không nuôi thị nữ. Thiền sư nếu không thâu nhận thì ai độ ông ta.
Đạo Lâm bèn cho xuất gia, thọ giới đặt pháp hiệu là Hội Thông. Từ đó ông ngày đêm tinh tấn tụng kinh Đại thừa, tu tập An ban Tam muội. Rồi bỗng một hôm ông từ giã thầy xin đi du phương. Đạo Lâm hỏi:
- Ông định đến đâu?
Ông thưa:
- Hội Thông vì pháp mà xuất gia. Hòa thượng chẳng rủ lòng chỉ dạy, nay con đến các nơi học Phật pháp.
Đạo lâm nói:
- Nếu là Phật pháp, thì trong đây ta cũng có chút ít.
- Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng?
Đao Lâm rút một sợi vải trên người, đưa lên thổi. Hội Thông bèn ngộ huyền chỉ, đời gọi là thị giả Bố Mao (lông vải). Hội Thông sau trụ ở Chiêu Hiền, đến đời Vũ Tông phế giáo, ông vào núi sâu ẩn, sau cùng chẳng biết thế nào.
Bạch Cư Dị, tự là Lạc Thiên, đời Đường khoảng 772-846 làm Thái thú Hàng Châu. Niên hiệu Trường Khánh năm thứ hai (822), nhân vào núi yết kiến Đạo Lâm, thấy Ngài ngồi trên ổ chim mới hỏi:
- Chỗ ở của Thiền sư nguy hiểm quá vậy?
Đạo Lâm nói:
- Thái thú còn nguy hiểm hơn nhiều.
Bạch Cư Dị nói:
- Đệ tử địa vị trấn giang sơn, có gì mà nguy hiểm?
Đạo Lâm nói:
- Củi lửa giao nhau, thức tánh chẳng dừng, không nguy hiểm sao được?
Bạch Cư Dị lại hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Đạo Lâm nói:
- Các ác chớ làm, những điều thiện vâng làm.
Bạc Cư Dị nói:
- Con nít ba tuổi cũng biết nói thế.
Đạo Lâm nói:
- Con nít ba tuổi tuy nói được mà ông lão 80 tuổi làm không được.
Bạch Cư Dị lại dùng kệ hỏi:
Riêng vào cửa không hỏi khổ không,
Dám đem việc thiền hỏi Thiền ông.
Ngay khi mộng là việc phù sanh,
Hay việc phù sanh ở trong mộng?
(Đặc nhập không môn vấn khổ không,
Cảm tương thiền sự khấu Thiền ông.
Vi đương mộng thị phù sanh sự,
Vi phục phù sanh thị mộng trung).
Đạo Lâm đáp:
Đến thì không dấu, đi không vết
Khi đi và đến, sự giống nhau
Đâu cần lại hỏi việc phù sanh
Chỉ phù sanh này là trong mộng.
(Lai thời vô tích khứ vô tung
Khứ dữ lai thời sự nhất đồng
Hà tu cánh vấn phù sanh sự
Chỉ thử phù sanh thị mộng trung).
Bạch Cư Dị bèn làm lễ mà lui.
Trích từ: Thư Viện Hoa Sen
Sưu Tầm: Hanh Nghiêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét